Mục đích của chăm sóc trước sinh là đảm bảo cho mẹ khỏe mạnh và con bình thường, như vậy sự cần thiết của định hướng yếu tố nguy cơ đối với bà mẹ cần được chú trọng. Nhận định và xử trí sớm các yếu tố nguy cơ sẽ cải thiện được những tai biến ảnh hưởng về sau. Thai nghén là một tình trạng động đòi hỏi phải theo dõi liên tục và có kế hoạch xử trí luôn được điều chỉnh cho thích hợp.
BỆNH SỬ.
Thông qua bệnh sử giúp các thầy thuốc phát hiện được các yếu tố nguy cơ và xử trí sớm được các yếu tố nguy cơ. Việc khai thác bệnh sử một cách liên tục giúp cho thầy thuốc phát hiện được những tình trạng bệnh tiến triển khi có thai mới bộc lộ ra.
1.Tình trạng kinh tế xã hôi
Tình trạng kinh tế xã hội được định nghĩa như là tổng hợp của một nhóm những yếu tố phức tạp có mỗi liên quan tương hỗ lẫn nhau: như trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, thu nhập, và nghề nghiệp. Tất cả những yếu tố này đóng vai trò quan trọng đối với tỷ lệ tử vong và tỷ lệ bệnh tật của cả bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tình trạng kinh tế xã hội thấp sẽ làm tăng tỷ lệ tử vong và tỷ lệ bệnh tật chu sinh.
2.Tuổi
Phụ nữ mang thai mà quá trẻ hoặc lớn tuổi đều được coi là yếu tố nguy cơ.
– Phụ nữ mang thai dưới 20 tuổi sẽ có những nguy cơ:
+ Đẻ non.
+ Thai chết lưu.
+ Tử vong sơ sinh.
+ Tiền sản giật/sản giật.
+ Rối loạn cơn co tử cung.
+ Theo dõi và chăm sóc trước sinh không được tốt.
– Phụ nữ mang thai trên 35 tu\ổi sẽ có những nguy cơ sau:
+ Tăng tỷ lệ tử vong chu sinh cho cả bà mẹ lẫn thai nhi.
+ Rau tiền đạo.
+ Đẻ non nếu đẻ con so sau 35 tuổi.
3.Nghiện.
– Nghiện thuốc lá. Có một sự liên quan mật thiết giữa bà mẹ nghiện thuốc lá nặng và tỷ lệ mắc bệnh cũng như tỷ lệ tử vong của thai nhi. Mặc dù cơ chế của sự liên quan này cha rõ ràng nhưng những bà mẹ hút thuốc lá đều có nguy cơ:
+ Rau bong non.
+ Rau tiền đạo.
+ Ra huyết khi có thai.
+ Vỡ ối non.
+ Đẻ non.
+ Sẩy thai.
+ Hội chứng sơ sinh chết đột tử.
+ Thai chết lưu.
+ Trẻ nhẹ cân.
+ Giảm lượng sữa cho con bú. k. Bệnh phổi.
– Nghiện ma tuý
Hậu quả đối với mẹ và con phụ thuộc vào chủng loại và liều lượng ma tuý bà mẹ sử dụng. Tác động có hại của ma tuý bao gồm:
+ Tăng lượng thuốc sử dụng khi cần thiết, khi sử dụng những thuốc mang tính điều trị nhưng có cùng nguồn gốc với loại thuốc ma tuý thì phải tăng liều lượng thuốc cao hơn người bình thường mới có tác dụng.
+ Hội chứng cai thuốc.
+ Thai chậm phát triển.
+ Dị dạng bẩm sinh.
+ Bệnh nhiễm trùng liên quan tới tiêm ma tuý không đảm bảo vô trùng.
+ Suy dinh dưỡng.
+ Đẻ non.
– Nghiện rượu.
+ Mức độ ảnh hưởng của rượu đến thai phụ thuộc vào lượng rượu sử dụng và thời gian sử dụng khi có thai.
+ Khi có thai thỉnh thoảng uống rượu thì tác động này còn chưa biết rõ, nhưng các thầy thuốc khuyên những phụ nữ có thai không nên uống rượu.
4.Nghề nghiêp
Đây là vấn đề còn đạng được thảo luận, nói chung những nghề nghiệp đòi hỏi phải lao động thể lực nặng nhọc và bị stress thì dễ gây đẻ non.
5.Tiền sử sản khoa
Việc khai thác tiền sử sản khoa rất quan trọng trong việc đánh giá tiên lượng sự tiến triển của thai nghén về sau này.
– Số lần đẻ.
* Con so:
Những phụ nữ đẻ con so có nguy cơ cao như sau:
+ Tiền sản giật/sản giật.
+ Những thay đổi về sinh lý mới cùng những stress, những bệnh lý tiềm ẩn có thể xuất hiện.
+ Không có những hiểu biết về tình trạng thai nghén và những biến chứng của nó.
* Con dạ đẻ nhiều lần:
Khi sản phụ có > 5 con sẽ tăng những nguy cơ:
– Rau tiền đạo
– Chẩy máu thứ phát sau đẻ do đờ tử cung.
– Tăng tỷ lệ song thai hai trứng.
– Nạo thai. Cổ tử cung có thể bị tổn thương do nong cổ tử cung khi nạo thai và làm tăng nguy cơ
+ Sẩy thai.
+ Hở eo – cổ tử cung.
+ Đẻ non.
+ Trẻ đẻ ra nhẹ cân.
– Đẻ non. Tần xuất đẻ non có liên quan tới bộ máy sinh dục, có hai khả năng xẩy ra trong những lần đẻ sau:
+ Giảm đi trong những lần đẻ tiếp theo.
+ Tăng lên trong các lần đẻ tiếp theo.
– Đẻ thai to (> 4kg) có thể do không phát hiện ra đái đường hoặc không khống chế được đường huyết và có thể có những tai biến khi đẻ như:
+ Đẻ đường dưới khó khăn.
+ Mổ đẻ do bất tương xứng đầu – chậu.
+ Biến chứng sau đẻ.
– Thai trong thời kỳ chu sinh có thể liên quan tới các nguyên nhân sau đây:
+ Đái đường.
+ Bệnh hệ thống.
+ Dị dạng bẩm sinh.
+ Đẻ non.
+ Chấn thương sản khoa.
+ Bệnh tan máu.
+ Chuyển dạ bất thường.
– Dị dạng bẩm sinh.
Nếu đã có một lần trẻ đẻ ra có dị dạng bẩm sinh thì tỷ lệ dị dạng bẩm sinh tăng lên trong các lần có thai sau cho nên cần thiết phải đánh giá sớm bằng chọc ối xét nghiệm, nếu có bất thường về nhiễm sắc thể cần kết thúc thai nghén sớm.
Chửa ngoài tử cung.
Bệnh nhân có tiền sử chửa ngoài tử cung thì những lần có thai sau nguy cơ chửa ngoài tử cung tăng lên, cho nên khi có thai cần đánh giá xem trứng đã làm tổ trong buồng tử cung chưa.
Mỗ đẻ cũ.
Sản phụ cần có chỉ định mổ tuyệt đối trong những lần có thai sau:
+ Nhiễm herpes cấp tính khi thai đủ tháng
+ Bất tương xứng đầu – chậu tuyệt đối
+ Mở thân tử cung lấy thai
+ Bóc tách nhân xơ vào tới nội mạc tử cung
+ Phần lớn các thầy thuốc khuyên rằng nếu đã mổ đẻ hai lần thì những lần có thai sau cần phải mổ đẻ.
Chảy máu: Bệnh nhân có tiền sử chảy máu thì sẽ tăng nguy cơ chảy máu trong những lần có thai tiếp theo ( rau tiền đạo, rau bong non, chảy máu sau đẻ).
Thai nghén gây tăng huyết áp (tiền sản giật/sản giật).
+ Tăng nguy cơ cao huyết áp trong những lần có thai tiếp theo.
+ Gây biến chứng cho những lần có thai tiếp theo do tăng huyết áp.
6.Tiền sử bệnh nội khoa.
– Bệnh tăng huyết áp mãn tính (> 149/90). Tình trạng bệnh lý này có thể được phát hiện ngay từ những lần khám thai đầu tiên, tiên lượng phụ thuộc vào việc khống chế huyết áp có tốt không khi có thai, tuy nhiên nó vẫn có những nguy cơ sau:
+ Tiền sản giật.
+ Rau bong non
+ Tử vong chu sinh
+ Tử vong mẹ
+ Nhồi máu cơ tim
+ Giảm tuần hoàn thai rau
– Bệnh tim ảnh hưởng cả đến mẹ và thai bao gồm:
+ Đối với mẹ: bệnh có thể nặng lên, bởi vì khi có thai tình trạng huyết động học thay đổi, một vài tổn thương ở tim đặc biệt trở nên nguy hiểm như hẹp van hai lá, tăng áp lực động mạch phổi, hội chứng Marfan, hội chứng Eisenmenger.
+ Sự phát triển của thai phụ thuộc vào tình trạng cung cấp oxy. Nếu do tổn thương tim làm cho cung cấp oxy không đầy đủ làm cho thai nhi phát triển bất thường thậm chí chết.
+ Thế hệ sau của những người mắc bệnh tim có nguy cơ mặc bệnh tim.
+ Một vài thứ thuốc điều trị bệnh tim có nguy cơ gây biến chứng đối với thai.
– Bệnh phổi.
Chức năng hô hấp và sự trao đổi khí ở phổi ảnh hưởng tới lượng oxy cung cấp cho thai.
– Bệnh thận.
+ Khi người phụ nữ có thai gây những biến đổi về sinh lý và giải phẫu đối với hệ thống tiết niệu do đó làm cho những người bị bệnh thận tiềm ẩn từ trước nặng lên.
+ Dưới sự theo dõi chặt chẽ về mặt y tế nhất là đối với huyết áp, những bệnh thận tiềm ẩn khi có thai hầu như có tiên lượng tốt.
+ Tỷ lệ tử vong thai nhi tăng lên đối với những người bệnh thận cho nên cần phải đến khám thai thường xuyên và làm những xét nghiệm thăm dò trước sinh. Bệnh nhân cần được tư vấn về những khả năng biến chứng của thuốc hạ huyết áp đối với thai nhi.
Bệnh đái đường.
+ Tăng tỷ lệ tử vong mẹ.
+ Tăng tỷ lệ tử vong thai.
+ Đa ối.
+ Dị dạng bẩm sinh.
+ Huyết áp mãn tính.
+ Tiền sản giật.
+ Phù .
– Viêm cầu thận đối với mẹ.
+ Thai chết lưu (nguyên nhân chính là do dị dạng). Tăng tỷ lệ bệnh của sơ sinh bao gồm:
* Hội chứng suy hô hấp.
Trẻ sơ sinh quá cân.
* Giảm đường huyết.
* Tăng bilirubin máu.
* Giảm canxi máu.
Bệnh tuyến giáp trạng.
Khi có thai, người phụ nữ có những thay đổi về hormon và chuyển hoá trong cơ thể do đó việc đánh giá chức năng của tuyến giáp rất phức tạp. Không điều trị nhược năng cũng như cường năng tuyến giáp sẽ ảnh hưởng rất lớn tới thai nhi trong quá trình mang thai. Điều trị bệnh lý tuyến giáp khi mang thai cũng rất phức tạp vì tuyến giáp thai như cũng phản ứng về mặt nội tiết và tính năng dược học của thuốc giống như đối với người mẹ.
Bệnh collagen mạch máu hệ thống (bệnh thấp khớp).
Những ảnh hưởng của thai nghén lên bệnh này khó có thể dự đoán được: có thể làm cho bệnh tiến triển nhanh lên, nặng lên, cũng có thể làm cho bệnh nhẹ đi. Bệnh lý này cũng có tác động lên thai nghén ( thí dụ bệnh lupus ban đỏ hệ thống sẽ làm tăng nguy cơ sẩy thai, đẻ non, thai chết lưu), và đặc biệt là tác dụng phụ của thuốc điều trị bệnh lên thai nhi.
Bệnh huyết học
– Khi có thai sẽ làm thay đổi về sinh lý cũng như nhu cầu về chuyển hoá do đó thường gây thiếu máu thứ phát do thiếu sắt và axit folic.
– Những bệnh lý về huyết sắc tố ( thí dụ như hồng cầu hình lưới liềm) có thể tiến triển nặng lên khi có thai và gây biến chứng nghiêm trọng đối với cả mẹ lẫn con.
– Những bệnh lý về tiểu cầu và rối loạn đông máu không chỉ ảnh hưởng tới mẹ và thai trong khi mang thai mà còn trong khi đẻ nhất là khi sổ rau gây chảy máu nặng.
– Một vài dạng bệnh lý của máu liên qua tới gen di truyền do đó cần làm công tác tư vấn trước khi có thai và khi mới bắt đầu mang thai.
Bệnh lý về gen.
Bệnh lý về gen của bà mẹ cần được đánh giá trước khi có thai hoặc lúc mới bắt đầu mang thai. Khi có thai bệnh lý về gen có thể nặng lên làm ảnh hưởng tới sự phát triển của thai trong tử cung.
Những yếu tố bệnh sử có thể giúp cho phân định yếu tố nguy cơ của cặp vợ chồng bao gồm:
– Cùng huyết thống. Lấy nhau giữa những người có họ hàng gần làm tăng nguy cơ bị mắc những bệnh về gen đột biến giống nhau.
+ Tăng nguy cơ sẩy thai.
+ Thế hệ con cháu dễ bị những bệnh hiếm gặp về gen di truyền lặn.
– Chủng tộc: một số chủng tộc dễ mắc những bệnh về gen di truyền như bệnh hồng cầu hình lưỡi liềm.
+ Tuổi mẹ cao (>35) con đẻ ra có nguy cơ bị mắc bệnh Down tăng lên.
+ Tuổi của bố mẹ cao (>55) con đẻ ra dễ bị mắc những bệnh về gen đột biến.
Bệnh tuyến yên.
Những người phụ nữ bị bệnh tuyến yên thường khó có thai, có thai sẽ làm cho bệnh lý tuyến yên nặng lên.
Bệnh tuyến thượng thận.
Khi có thai chức năng tuyến thượng thân cũng thay đổi, những trường hợp suy tuyến thượng thận cấp khi có thai có thể đe doạ tính mạng bệnh nhân.
Bệnh tuyến cận giáp.
Tuyến cận giáp ổn định bình thường là cơ sở đảm bảo cho sức khoẻ của cả mẹ lẫn con, nồng độ canxi máu là chìa khoá để đánh giá hoạt động của tuyến cận giáp. Nhu cầu canxi tăng lên khi có thai do đó cần đẩm bảo chế độ dinh dưỡng cũng như thuốc điều trị để cung cấp đầy đủ lượng canxi cần thiết.
Bệnh gan.
Cũng như phần lớn các cơ quan phủ tạng, gan có biến động về mặt giải phẫu và sinh lý và chức năng khi có thai. Phần lớn những bệnh lý về gan khi có thai nặng lên do đó cần được theo dõi một cách chặt chẽ. Bệnh lý về gan có thể ảnh hưởng có hại đến thai nhi ( bệnh viêm gan do virus).
Bệnh hệ thống thần kinh.
Những ảnh hưởng của thai nghén lên bệnh của hệ thống thần kinh có trước hoặc mới mắc hoàn toàn khác nhau.Những thuốc điều trị bệnh có thể có tác động xấu đến cả mẹ lẫn con.
Bệnh tắc tĩnh mạch do huyết khối.
Bệnh có thể xuất hiện trong khi có thai hoặc ngay lập tức sau đẻ trên những bệnh nhân có tiền sử huyết khối, điều quan trong phải nhận định được những đối tượng có nguy cơ cao khi có thai để phòng chống.
Bệnh nhiễm trùng.
Một vài loại virus, vi khuẩn, ký sinh trùng có thể qua đường hàng rào rau thai gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng tới thai nhi và sơ sinh. Những xét nghiệm thông thường để phát hiện giang mai, lậu, rubella cần được tiến hành. Một số những bệnh nhiễm khuẩn sau đây có thể gây tỷ lệ bệnh lý và tỷ lệ tử vong cho mẹ và con tăng lên.
– Cytomegalovirus.
+ Những phụ nữ có thai mắc cytomegalovirus tiên phát sẽ làm tăng nguy cơ dị dạng bẩm sinh đặc biệt là trên bộ máy thần kinh.
+ Khi bệnh tiến triển mạnh sẽ gây tử vong sơ sinh.
+ Nhiễm khuẩn sau khi đẻ có thể xảy ra, nhưng thường không gây di chứng.
– Virus herpes.
+ Đó là bệnh lây truyền qua đường tình dục.
+ Nhiễm khuẩn trong khi có thai sẽ làm tăng nguy cơ thai chết lưu và đẻ non.
+ Phần lớn trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh khi đi qua đường sinh dục hoặc là virus lan lên qua cổ tử cung khi ối vỡ.
+ Trẻ sơ sinh bị nhiễm virus có thể không phát hiện ra di chứng. Những thai nhi bị nhiễm bệnh toàn bộ, nếu sống sót có thể có di chứng ở mắt hoặc hệ thống thần kinh.
+ Điều quan trong cần phải nhận biết bệnh nhân nhiễm herpes cũ hoặc mới nhiễm để đề ra phương pháp xử trí thích hợp.
– Virus viêm gan B
* Nếu sự lây nhiễm trong ba tháng đầu hay ba tháng giữa thường không gây hậu quả gì. Lây nhiễm xẩy ra trong ba tháng cuối thường liên quan với tăng nguy cơ đẻ non gây hậu quả tỷ lệ bệnh lý và tỷ lệ tử vong sơ sinh tăng lên, trẻ so sinh có thể bị nhiễm virus:
+ Không có triệu chứng.
+ Bệnh viêm gan cấp, xơ gan dẫn tới tử vong.
+ Trở thành người mang mầm bệnh mãn tính.
* Bà mẹ bị mang mầm bệnh mãn tính HBsAg truyền bệnh cho con.
* Những cố gắng về mặt y tế nhằm phòng chống lây nhiễm trên trẻ sơ sinh của những bà mẹ mang mầm bệnh mãn tính. Đối với những bà mẹ bị viêm gan cấp tính vào ba tháng cuối khi mang thai cần phải xử trí ngay lúc đẻ bao gồm hút dịch mũi họng, dạ dầy tiêm huyết thanh có globulin miễn dịch.
* Thái độ xử trí đối với bà mẹ bao gồm nghỉ ngơi, đảm bảo chế độ dinh dưỡng cũng như lượng dịch cung cấp cho cơ thể.
– Toxoplasma.
Toxoplasma là một loại ký sinh trùng, khi bà mẹ nhiễm bệnh có thể có triệu chứng không rõ ràng, nhưng thai nhi có thể nhiễm bệnh trong tử cung.
Nguy cơ đối với thai phụ thuộc vào tuổi thai khi nhiễm bệnh, điều đó phản ánh tình trạng miễn dịch của thai, ví dụ thai xẽ có nguy cơ nhiễm bệnh cao khi mẹ bị mắc bệnh trong ba tháng cuối.
Bài liên quan: Những rối loạn tăng huyết áp trong thai kỳ có nguy cơ tiền sản giật
Yhocvn.net
Chưa có bình luận.