Các loại thuốc trở nên không hiệu quả và nhiễm trùng vẫn tồn tại trong cơ thể, làm tăng nguy cơ lây lan sang người khác là sự nguy hiểm khi các vi sinh vật kháng thuốc kháng sinh
+ Kháng thuốc kháng sinh (AMR) đe dọa phòng ngừa và điều trị hiệu quả đối với một loạt các bệnh nhiễm trùng ngày càng tăng do vi khuẩn, ký sinh trùng, vi rút và nấm gây ra.
AMR là mối đe dọa ngày càng nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu, yêu cầu tất các ngành và xã hội phải có hành động để ngăn chặn.
Nếu không có kháng sinh hiệu quả, sự thành công của các cuộc đại phẫu thuật và hóa trị ung thư sẽ bị nguy hại
+ Chi phí chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân nhiễm trùng kháng thuốc cao hơn chăm sóc cho bệnh nhân nhiễm trùng không kháng thuốc do thời gian bị bệnh lâu hơn, xét nghiệm bổ sung và sử dụng thuốc tốn kém hơn.
+ Năm 2016, có 490 000 người đã phát triển bệnh lao đa kháng thuốc trên toàn cầu và tình trạng kháng thuốc cũng bắt đầu làm phức tạp cuộc chiến chống lại HIV và sốt rét.
Kháng thuốc kháng sinh là gì?
Kháng thuốc kháng sinh xảy ra khi các vi sinh vật (như vi khuẩn, nấm, vi rút và ký sinh trùng) thay đổi khi chúng tiếp xúc với thuốc chống vi trùng (như kháng sinh, thuốc chống nấm, thuốc chống vi rút, thuốc chống sốt rét và thuốc chống giun sán). Các vi sinh vật phát triển kháng thuốc kháng sinh đôi khi được gọi là siêu vi khuẩn.
Do đó, các loại thuốc trở nên không hiệu quả và nhiễm trùng vẫn tồn tại trong cơ thể, làm tăng nguy cơ lây lan sang người khác.
Tại sao kháng thuốc kháng sinh là mối quan tâm toàn cầu?
Các hiện tượng kháng thuốc mới đang xuất hiện và lan rộng trên toàn cầu, đe dọa khả năng điều trị các bệnh truyền nhiễm thông thường của chúng ta, dẫn đến bệnh kéo dài, tàn tật và tử vong.
Nếu không có thuốc kháng sinh hiệu quả để phòng ngừa và điều trị nhiễm trùng, các quy trình y tế như ghép tạng, hóa trị ung thư, quản lý bệnh tiểu đường và đại phẫu thuật (ví dụ, mổ lấy thai hoặc thay khớp háng) có nguy cơ rất cao.
Kháng thuốc kháng sinh làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe với thời gian nằm viện lâu hơn và cần được chăm sóc nhiều hơn.
Kháng thuốc kháng sinh khiến lợi ích của các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ gặp rủi ro và cản trở thành công cho Mục tiêu Phát triển bền vững.
Điều gì làm tăng tốc độ xuất hiện và lan truyền của kháng thuốc kháng sinh?
Kháng thuốc kháng sinh xảy ra tự nhiên theo thời gian, thường là thông qua biến đổi di truyền. Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc kháng khuẩn đang đẩy nhanh quá trình này. Ở nhiều nơi, thuốc kháng sinh được sử dụng quá mức và lạm dụng ở người và động vật, và thường được sử dụng mà không có sự giám sát chuyên nghiệp. Ví dụ về việc lạm dụng bao gồm khi bị nhiễm bởi những người bị nhiễm virut như cảm lạnh và cúm, và khi dùng làm chất kích thích tăng trưởng ở động vật hoặc được sử dụng để phòng bệnh ở động vật khỏe mạnh.
Vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh được tìm thấy trong người, động vật, thực phẩm và môi trường (trong nước, đất và không khí). Chúng có thể lây lan giữa người và động vật, bao gồm từ thực phẩm có nguồn gốc động vật và từ người sang người. Kiểm soát nhiễm trùng kém, điều kiện vệ sinh và xử lý thực phẩm không phù hợp làm tăng sự lây lan của kháng thuốc kháng sinh.
Tình trạng hiện nay
Kháng vi khuẩn, kháng thuốc kháng sinh tồn tại ở mọi quốc gia
Bệnh nhân bị nhiễm trùng do vi khuẩn kháng thuốc dẫn đến kết quả lâm sàng tồi tệ hơn, dễ tử vong, gây tốn kém và mất thời gian chăm sóc sức khỏe hơn so với bệnh nhân bị nhiễm các chủng vi khuẩn không kháng cùng loại.
Sự đề kháng ở Klebsiella pneumoniae – vi khuẩn đường ruột phổ biến có thể gây nhiễm trùng đe dọa tính mạng – đến một phương pháp điều trị cuối cùng (kháng sinh carbapenem) đã lan rộng đến tất cả các khu vực trên thế giới. K. pneumoniae là một nguyên nhân chính của nhiễm trùng bệnh viện như viêm phổi, nhiễm trùng máu và nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh và bệnh nhân chăm sóc đặc biệt. Ở một số quốc gia, vì kháng thuốc, kháng sinh carbapenem không có tác dụng ở hơn một nửa số người được điều trị nhiễm trùng K. Kháng E. coli đối với một trong những loại thuốc được sử dụng rộng rãi nhất để điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu (kháng sinh fluoroquinolone) là rất phổ biến. Có nhiều quốc gia trên thế giới điều trịhiện không hiệu quả ở hơn một nửa số bệnh nhân.
Điều trị thất bại trong lần điều trị cuối cùng của thuốc điều trị bệnh lậu (kháng sinh cephalosporin thế hệ thứ ba) đã được xác nhận tại ít nhất 10 quốc gia (Úc, Áo, Canada, Pháp, Nhật Bản, Na Uy, Slovenia, Nam Phi, Thụy Điển và Vương quốc Anh và Bắc Ireland).
WHO gần đây đã cập nhật các hướng dẫn điều trị bệnh lậu để giải quyết tình trạng kháng thuốc mới nổi. Các hướng dẫn mới của WHO không khuyến nghị sử dụng quinolone (một nhóm kháng sinh) để điều trị bệnh lậu do mức độ kháng thuốc lan rộng. Ngoài ra, hướng dẫn điều trị nhiễm trùng chlamydia và giang mai cũng được cập nhật.
Kháng thuốc hàng đầu để điều trị nhiễm trùng do Staphlylococcus aureus, một nguyên nhân phổ biến gây nhiễm trùng nặng ở các cơ sở y tế và cộng đồng là phổ biến. Những người bị MRSA (Staphylococcus aureus kháng methicillin) được ước tính có nguy cơ tử vong cao hơn 64% so với những người có dạng nhiễm trùng không kháng thuốc.
Colistin là phương pháp điều trị cuối cùng đối với các bệnh nhiễm trùng đe dọa tính mạng do Enterobacteriaceae gây ra có khả năng kháng carbapenems. Kháng với colistin gần đây đã được phát hiện ở một số quốc gia và khu vực, không thể điều trị đượcbệnh nhiễm trùng do vi khuẩn như vậy.
Kháng thuốc bệnh lao(TB)
WHO ước tính, năm 2014, có khoảng 480 000 trường hợp mắc bệnh lao đa kháng thuốc mới (MDR-TB), một dạng bệnh lao kháng 2 loại thuốc chống lao mạnh nhất. Chỉ khoảng một phần tư trong số này (123 000 trường hợp) được phát hiện và báo cáo. MDR-TB yêu cầu các đợt điều trị dài hơn và ít hiệu quả hơn so với những người mắc lao không kháng thuốc.
Trên toàn cầu, chỉ một nửa số bệnh nhân lao đa kháng thuốc được điều trị thành công trong năm 2014.
Trong số các trường hợp mắc lao mới
vào năm 2014, ước tính 3,3% là đa kháng thuốc. Tỷ lệ này cao hơn ở những người
trước đây được điều trị bệnh lao, ở mức 20%.
Lao kháng thuốc rộng rãi (XDR-TB), một dạng bệnh
lao kháng với ít nhất 4 loại thuốc chống lao chính, đã được xác định ở 105 quốc
gia. Ước tính 9,7% số người mắc MDR-TB có XDR-TB.
Kháng thuốc bệnh sốt rét
Kể từ tháng 7 năm 2016, khả năng kháng thuốc điều trị đầu tiên đối với bệnh sốt rét do P. falciparum (liệu pháp kết hợp dựa trên artemisinin, còn được gọi là ACT) đã được xác nhận tại 5 quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mê Kông (Campuchia, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam). Ở hầu hết các nơi, bệnh nhân bị nhiễm trùng kháng artemisinin sẽ hồi phục hoàn toàn sau khi điều trị, với điều kiện là họ được điều trị bằng ACT có chứa một loại thuốc hiệu quả. Tuy nhiên, dọc biên giới Campuchia-Thái Lan, P. falciparum đã trở nên kháng với hầu hết các loại thuốc chống sốt rét có sẵn, khiến việc điều trị trở nên khó khăn và cần được theo dõi chặt chẽ hơn. Có nguy cơ thực sự là tình trạng đa kháng thuốc cũng sẽ sớm xuất hiện ở các khu vực khác của tiểu vùng. Sự lây lan của các chủng kháng thuốc sang các khu vực khác trên thế giới có thể đặt ra thách thức lớn đối với sức khỏe cộng đồng và gây nguy hiểm cho việc kiểm soát sốt rét gần đây.
“Chiến lược của WHO về loại trừ bệnh sốt rét ở tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (2015-2030)” đã được cả 5 quốc gia, cũng như Trung Quốc tán thành.
Kháng thuốc bệnh HIV
Năm 2010, ước tính 7% số người bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng vi-rút (ART) ở các nước đang phát triển có HIV kháng thuốc. Ở các nước phát triển, con số tương tự là 10 -20%. Một số quốc gia gần đây đã báo cáo mức độ ở mức hoặc trên 15% trong số những người bắt đầu điều trị HIV và lên đến 40% trong số những người bắt đầu điều trị lại. Điều này cần được quan tâm hàng đầu.
Tăng mức độ kháng thuốc có ý nghĩa kinh tế quan trọng vì các đợt điều trị thứ hai và thứ ba đắt hơn gấp 3 lần và 18 lần so với thuốc đợt đầu.
Kể từ tháng 9 năm 2015, WHO đã khuyến nghị mọi người nhiễm HIV nên bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng vi-rút. Việc sử dụng ART nhiều hơn dự kiến sẽ tăng thêm sức đề kháng ART ở tất cả các khu vực trên thế giới. Để tối đa hóa hiệu quả lâu dài của các phác đồ điều trị ARV bậc 1, và để đảm bảo mọi người đang sử dụng đợt thuốc hiệu quả nhất, điều cần thiết là tiếp tục theo dõi tình trạng kháng thuốc và giảm thiểu sự xuất hiện và lan rộng hơn nữa tình trạng này. Tham khảo ý kiến các quốc gia, đối tác và các bên liên quan, WHO hiện đang phát triển một “Kế hoạch hành động toàn cầu về kháng thuốc HIV (2017-2021)”.
Kháng thuốc bệnh cúm
Thuốc kháng vi-rút rất quan trọng để điều trị dịch cúm và đại dịch cúm. Cho đến nay, hầu như tất cả các vi-rút cúm A lưu hành ở người đều kháng với một loại thuốc chống vi-rút – Thuốc ức chế M2 (amantadine và rimantadine). Tuy nhiên, tần suất kháng với chất ức chế neuraminidase oseltamivir vẫn còn thấp (1-2%). Độ nhạy cảm với thuốc kháng vi-rút được theo dõi liên tục thông qua Hệ thống Giám sát và Ứng phó với Cúm Toàn cầu của WHO.
Hành động phối hợp cần thiết
Kháng
thuốc kháng sinh là một vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến tất cả xã hội và được
thúc đẩy bởi nhiều yếu tố liên kết với nhau. Can thiệp đơn, cách ly có tác động
hạn chế. Hành động phối hợp là cần thiết để giảm thiểu sự xuất hiện và lan truyền
của kháng thuốc kháng sinh.
Tất cả các quốc gia cần có kế hoạch hành động quốc gia về AMR.Cần phải đổi
mới và đầu tư nhiều hơn trong nghiên cứu và phát triển các loại thuốc kháng khuẩn,
vắc-xin và các công cụ chẩn đoán mới.
Phản ứng WHO
WHO đang cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để giúp các quốc gia xây dựng kế hoạch hành động quốc gia và tăng cường hệ thống giám sát sức khỏe để họ có thể ngăn ngừa và quản lý tình trạng kháng thuốc kháng khuẩn. WHO cũng đang hợp tác với các đối tác để củng cố cơ sở bằng chứng và nghiên cứu các phản ứng mới đối với mối đe dọa toàn cầu này.
WHO đang hợp tác chặt chẽ với Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) và Tổ chức Thú y Thế giới (OIE) theo cách tiếp cận ‘Một sức khỏe’ để thúc đẩy các thực hành tốt nhất nhằm tránh sự xuất hiện và lan truyền của kháng thuốc kháng sinh, bao gồm sử dụng tối ưu kháng sinh ở cả người và động vật.
Một tuyên bố chính trị được các nguyên thủ quốc gia tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại New York phê duyệt vào tháng 9 năm 2016 đã báo hiệu cam kết của thế giới trong việc tiếp cận rộng rãi, phối hợp để giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của kháng thuốc kháng sinh trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sức khỏe con người, sức khỏe động vật và nông nghiệp. WHO đang hỗ trợ các quốc gia thành viên phát triển các kế hoạch hành động quốc gia về kháng thuốc kháng sinh, dựa trên kế hoạch hành động toàn cầu.
WHO đã và đang dẫn đầu nhiều sáng kiến để giải quyết tình trạng kháng thuốc kháng sinh:
Tuần lễ nhận thức thuốc kháng sinh của thế giới
Được tổ chức vào tháng 11 năm 2015 với chủ đề Thuốc kháng sinh:, Chiến dịch toàn cầu, nhiều năm có khối lượng hoạt động tăng dần trong tuần của chiến dịch.
Hệ thống giám sát kháng thuốc kháng sinh toàn cầu (GLASS)
Hệ thống được WHO hỗ trợ cách tiếp cận tiêu chuẩn để thu thập, phân tích và chia sẻ dữ liệu liên quan đến kháng thuốc kháng sinh ở cấp độ toàn cầu nhằm đưa ra quyết định, thúc đẩy hành động của địa phương, quốc gia và khu vực.
Đối tác nghiên cứu và phát triển kháng sinh toàn cầu (GARDP)
Một sáng kiến chung của WHO và Thuốc cho bước đầu của các Bệnh bị Lãng quên (DNDi), GARDP khuyến khích nghiên cứu và phát triển thông qua quan hệ đối tác công tư. Đến năm 2023, sự hợp tác này nhằm phát triển và đưa ra tới bốn phương pháp điều trị mới, thông qua việc cải thiện các loại kháng sinh hiện có và sự gia tăngxâm nhập của các loại thuốc kháng sinh mới.
Nhóm điều phối liên ngành về kháng thuốc kháng sinh (IACG)
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc đã thành lập IACG để cải thiện sự phối hợp giữa các tổ chức quốc tế và để đảm bảo hành động toàn cầu hiệu quả chống lại mối đe dọa này đối với an ninh y tế. IACG được đồng chủ trì bởi Phó Tổng thư ký LHQ và Tổng giám đốc WHO và bao gồm đại diện cấp cao của các cơ quan LHQ có liên quan, các tổ chức quốc tế khác và các chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Yhocvn.net/Theo Tạp chí Thử nghiệm Ngày nay
Chưa có bình luận.