Thứ Năm, 12/11/2015 | 22:32

Ở Việt Nam đã lâu lắm không còn dịch bạch hầu do thực hiện tốt tiêm chủng vắc-xin bạch hầu.

* Chiều ngày 6/11, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng – Bộ Y tế cho biết, hiện nay dịch bạch hầu đã xuất hiện tại 6/17 tỉnh, thành phố của Lào, với gần 600 ca bệnh, chủ yếu là trẻ em dưới 15 tuổi, 11 người đã tử vong. Để chủ động phòng chống bệnh xâm nhập nước ta, SK&ĐS xin giới thiệu bài viết sau nhằm giúp bạn đọc hiểu hơn về bệnh cũng như biết cách phòng chống bệnh một cách hiệu quả nhất.

Ở Việt Nam đã lâu lắm không còn dịch bạch hầu do thực hiện tốt tiêm chủng vắc-xin bạch hầu. Nhưng đầu năm 2015, tại Gia Lai, Quảng Nam cũng có một vài thôn có bệnh nhân mắc bạch hầu. Vì vậy, cần biết rõ sự nguy hại và cách nhận biết của bệnh này để phòng tránh.

Chủ động chặn bệnh bạch hầu

Sự nguy hiểm của bệnh bạch hầu

Bệnh bạch hầu do vi khuẩn bạch hầu gây ra bởi ngoại độc tố của chúng. Ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu cực kỳ mạnh, vì vậy, bệnh bạch hầu là một loại bệnh vừa mang tính chất cấp tính vừa mang tính chất cấp cứu. Cấp tính là xảy ra rất nhanh và cấp cứu bởi vì không phát hiện và xử trí kịp thời, người bệnh có thể nguy kịch, tử vong.

Đường lây truyền của vi khuẩn bạch hầu rất dễ dàng, đó là lây theo đường hô hấp do người bệnh, người lành mang vi khuẩn bạch hầu nói, ho bắn vi khuẩn vào không khí, người lành hít phải, nếu chưa có miễn dịch chống vi khuẩn bạch hầu, sẽ mắc bệnh. Vi khuẩn bạch hầu còn lây lan bởi các dụng cụ, đồ dùng trong sinh hoạt của trẻ, nếu một trẻ mắc bệnh, dùng đồ chơi, quần áo, chăn, màn… sẽ bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu rất dễ lây lan mầm bệnh

Nhận biết bệnh bạch hầu

Có 3 loại (thể) bệnh bạch hầu, loại hay gặp nhất là bạch hầu họng, mũi. Ở loại này thời kỳ nung bệnh khoảng vài ba ngày. Biểu hiện có sốt nhẹ, sổ mũi, viêm họng, nuốt vướng, sau vài ngày sẽ xuất hiện màng trắng ngà, xám, dai, dính chặt vào niêm mạc họng rất khó bóc tách, nếu cố bóc tách sẽ chảy máu (giả mạc). Giả mạc phát triển rất nhanh ở amiđan. Người bệnh có biểu hiện nhiễm độc tố (da xanh tái, mệt mỏi, mạch nhanh, huyết áp giảm). Nếu được điều trị đúng, bệnh sẽ khỏi, nếu không phát hiện và điều trị ngay, loại này sẽ tiến triển thành loại bạch hầu thanh quản. Bạch hầu thanh quản do niêm mạc bị bao phủ bởi một lớp giả mạc gây khó thở cấp, dẫn đến suy hô hấp, tử vong (thường ví là chết đuối trên cạn). Loại thứ ba là bạch hầu ác tính (bạch hầu cấp), xuất hiện ngay ngày đầu tiên hoặc ngày thứ 2, thứ 3 hoặc muộn hơn với các triệu chứng sốt cao (39 – 40 độ C) mệt lả, da xanh tái, nôn, nuốt đau, màng giả lan nhanh 2 bên amiđan, hơi thở hôi, hạch góc hàm sưng to, đau làm cổ bạnh ra. Bệnh nhân dần dần bị mệt lả, tím tái, rối loạn nhịp tim, khó thở, khàn tiếng, huyết áp tụt, mạch rất nhanh, nếu không xử trí kịp thời có thể bệnh trở nên nguy kịch đe dọa tính mạng (tử vong).

Chủ động chặn bệnh bạch hầu

Khám phát hiện bạch hầu.

Bệnh bạch hầu đưa đến biến chứng gì?

Do độc tố của vi khuẩn bạch hầu cực mạnh cho nên khi bị mắc bệnh rất dễ gây biến chứng và là biến chứng nặng, nguy hiểm. Bởi vì, khi vi khuẩn bạch hầu tiết ra ngoại độc tố, chúng sẽ vào máu đi đến khắp cơ thể, đến tim làm tổn thương cơ tim (viêm cơ tim) gây suy tim cấp, đến tổ chức thần kinh gây viêm thần kinh. Biến chứng suy tim cấp có thể xảy ra vào thời kỳ bệnh toàn phát, thậm chí xảy ra muộn hơn sau vài tuần khi bệnh bạch hầu đã khỏi (hết sốt, hết giả mạc,…), nếu viêm cơ tim cấp xảy ra sớm, tình trạng người bệnh sẽ rất nguy kịch. Với biến chứng viêm dây thần kinh, thường là các dây thần kinh vận động (liệt khẩu cái, dây thần kinh vận nhãn, chi, cơ hoành,…). Liệt cơ hoành có thể dẫn đến viêm phổi, suy hô hấp do tắc nghẽn đường thở bởi giả mạc gây ra.

Chủ động chặn bệnh bạch hầu

Giả mạc ở họng do bạch hầu.

Bệnh bạch hầu có thể điều trị được không?

Tuy bệnh bạch hầu vừa mang tính chất cấp tính vừa mang tính chất cấp cứu nhưng hoàn toàn có thể điều trị được, nếu phát hiện sớm, điều trị đúng và kịp thời. Nguyên tắc điều trị là dùng kháng huyết thanh chống vi khuẩn bạch hầu để trung hòa ngoại độc tố của chúng. Kháng sinh vẫn còn có tác dụng tốt, trong đó có penicillin, erythromyxin. Cho đến nay chưa thấy công bố nào nói đến vi khuẩn bạch hầu kháng thuốc kháng sinh. Bên cạnh đó cần theo dõi lâm sàng, điện tim, siêu âm tim và nâng thể trạng cho người bệnh.

Điều thuận lợi nhất là chúng ta đã có vắc-xin phòng bệnh hiệu quả nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Tuy nhiên tuyệt đối không được chủ quan, để đảm bảo không có người mắc bệnh và không có dịch xảy ra, không bỏ sót đối tượng trong diện được tiêm chủng vắc-xin bạch hầu. Người lớn nếu chưa có miễn dịch cũng cần được tiêm phòng, nhất là trong gia đình có trẻ bị bạch hầu. Khi có người mắc bạch hầu cần cách ly không cho tiếp xúc với người lành và đeo khẩu trang. Những người tiếp xúc thường xuyên với người bệnh cần được sử dụng kháng sinh dự phòng. Cần vệ sinh sạch sẽ các đồ dùng, dụng cụ mà người bệnh đã sử dụng, nên có chất sát khuẩn mạnh (Cloramin B) để tẩy uế các dụng cụ, sàn nhà, quần áo chăn, màn… của người bệnh

BS. Việt Bắc

Nguồn: SKĐS

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook