Xơ vữa động mạch chỉ xảy ra ở các động mạch lớn và vừa, không xảy ra ở các động mạch có áp lực thấp như động mạch phổi, hay ở các động mạch nhỏ và tĩnh mạch. Đây là nguyên nhân gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, đặc biệt là bệnh động mạch vành và bệnh mạch máu não. Trước đây người ta cho rằng xơ vữa động mạch khó có thể điều trị được, nhưng những nghiên cứu mới nhất đang biến những điều không thể thành có thể.
Sự hình thành xơ vữa động mạch và những nguy hiểm xảy ra
Xơ vữa động mạch là hiện tượng dày và cứng lên của thành các động mạch có khẩu kính lớn và trung bình, là nguyên nhân gây nên thiếu máu cục bộ cơ tim, các cơn đột qụy do thiếu máu cục bộ não (nhồi máu não), bệnh mạch máu ngoại biên, phình động mạch chủ bụng… Trước hết vì một lý do nào đó làm cho các tế bào nội mạc động mạch bị tổn thương, mất chức năng bảo vệ thành mạch. Nguyên nhân gây tổn thương tế bào nội mạc có thể do ảnh hưởng của dòng máu có áp lực cao liên tục tác động đến như trong bệnh tăng huyết áp, do ảnh hưởng của thuốc lá, một số thuốc và hóa chất, thức ăn, rối loạn lipid máu, nhiễm khuẩn và virut, các yếu tố miễn dịch…
Khi bị tổn thương, các tế bào nội mạc tại chỗ mất khả năng tiết ra prostacyclin. Tiểu cầu lập tức tách ra khỏi dòng máu để tập trung vào chỗ đó và kết dính lại, phóng thích ra nhiều chất trong đó có yếu tố tăng trưởng, yếu tố này kích thích sự di chuyển của các tế bào cơ trơn ở lớp trung mạc ra lớp nội mạc và phát triển mạnh tại đó. Các bạch cầu đơn nhân từ dòng máu cũng đến ngay chỗ tổn thương và được chuyển dạng thành đại thực bào. Các đại thực bào này “ăn” các LDL-C và trở thành các “tế bào bọt” tích đầy mỡ. Đến khi quá tải, các tế bào này bị vỡ và đổ cholesterol ra ngoài làm cho lớp dưới nội mạc dày lên tạo nên các vạch lipid hay các mảng xơ vữa đặc trưng của bệnh.
Tích tụ các tế bào bọt dẫn đến hình thành các mảng xơ vữa
Những điều không thể đang trở thành có thể
Trước đây xơ vữa động mạch thường được xem là một bệnh tiến triển mạn tính đặc trưng bởi sự tích tụ liên tục của các mảng xơ vữa trong thành động mạch. Trong 2 thập kỷ vừa qua đã có nhiều phương pháp điều trị được áp dụng nhằm hạn chế sự tiến triển của quá trình xơ vữa động mạch như thay đổi lối sống, sử dụng các thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn bêta giao cảm, thuốc chẹn kênh canxi…, nhưng đáng chú ý nhất là các thuốc điều chỉnh rối loạn lipid máu, đặc biệt là thuốc ức chế sản xuất 3-hydroxy-3-methylglutaryl CoA (statin).
Song song với các nghiên cứu lâm sàng, các nghiên cứu hình ảnh đã đánh giá hiệu quả điều trị chống xơ vữa động mạch trên sự tiến triển của quá trình này. Các nghiên cứu ban đầu sử dụng phương pháp chụp động mạch vành định lượng hay siêu âm động mạch cảnh để đánh giá sự tiến triển của quá trình xơ vữa động mạch. Gần đây, phương pháp siêu âm trong lòng mạch đã nổi lên với những ưu thế vượt trội trong đánh giá sự tiến triển của quá trình xơ vữa động mạch vành. Siêu âm trong lòng mạch là phương pháp đánh giá chính xác nhất trong xác định sự thay đổi của mảng xơ vữa qua quá trình điều trị. Các nghiên cứu với siêu âm trong lòng mạch cho thấy có thể làm chậm hay làm ngừng lại quá trình xơ vữa động mạch khi điều trị bằng statin liều cao. Tuy nhiên, không có một nghiên cứu lớn nào đưa ra các bằng chứng cho thấy có sự thoái triển của mảng xơ vữa động mạch được đánh giá bằng siêu âm trong lòng mạch. Trong các thuốc nhóm statin, rosuvastatin là một loại statin mới nhất và đặc biệt là làm giảm LDL-C nhiều hơn đồng thời làm tăng HDL-C rõ rệt hơn các thuốc statin khác.
Theo kinh điển, xơ vữa động mạch là một quá trình bệnh lý tiến triển không thể thay đổi được, do vậy thậm chí với các phương pháp điều trị tích cực nhất cũng chỉ có thể làm chậm quá trình tiến triển này mà thôi. Nhưng các biện pháp điều trị mới đã làm thay đổi cách nhìn nhận của chúng ta về căn bệnh này.
Như vậy, xơ vữa động mạch không còn là một bệnh tiến triển tự nhiên, lâu dài và ngày một nặng dần nữa. Đây cũng là một minh chứng hùng hồn rằng với một chiến lược điều trị lý tưởng hơn, trong đó làm giảm lipid máu một cách tích cực hơn có thể làm đảo ngược quá trình xơ vữa động mạch.
Xơ vữa động mạch hình thành từ khi nào?
Tỷ lệ bị xơ vữa động mạch liên quan trực tiếp đến tuổi. Một số nghiên cứu cho thấy quá trình xơ vữa động mạch có thể xảy ra từ rất sớm trong những năm đầu tiên của đời người, thậm chí có tác giả còn thấy hiện tượng xơ vữa động mạch xuất hiện ở ngay trong thời kỳ bào thai. Các tổn thương trung gian được hình thành vào những năm 30 của đời người và từ 40 tuổi đã hình thành các mảng xơ vữa thực sự và có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như nhồi máu cơ tim. Từ 50 tuổi trở đi, quá trình xơ vữa động mạch tiếp tục tiến triển trở nên trầm trọng hơn và gây ra các biến chứng như bệnh mạch máu ngoại biên, bệnh mạch máu não… Có tới 17% người dưới 20 tuổi bị xơ vữa động mạch, tỷ lệ này là 37% ở người có độ tuổi từ 20-29, 60% ở người có độ tuổi từ 30-39, 71% ở người có độ tuổi từ 40-49 và 85% ở người có độ tuổi từ 50 trở lên.
PGS-TS. Nguyễn Quang Tuấn – BV Bạch Mai
Chưa có bình luận.