Thứ Bảy, 11/05/2019 | 15:37

Thế nào là rung nhĩ?

Rung nhĩ là rối loạn nhịp tim thường gặp nhất và để lại nhiều gánh nặng cho sức khỏe cộng đồng ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Người ta ước tính chỉ riêng ở Hoa Kỳ, hiện có gần 3 triệu người đang bị rung nhĩ. Tỉ lệ rung nhĩ tăng dần theo tuổi và trung bình cứ 1 trong 10 người trên 80 tuổi sẽ bị mắc chứng loạn nhịp này. Tại Việt Nam, tỉ lệ mắc rung nhĩ ngày một gia tăng do tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng cao và sự gia tăng của các bệnh lý tim mạch.

Rung nhĩ có thể gây ra nhiều hậu quả đối với sức khỏe, tim đập nhanh và không đều gây cảm giác đánh trống ngực, mệt mỏi, hạ huyết áp hoặc thậm chí dẫn đến suy tim. Một hậu quả nghiêm trọng khác của rung nhĩ là làm tăng nguy cơ gây tai biến mạch máu não (hay đột quỵ).

Bình thường, quả tim co bóp đều đặn và nhịp nhàng từ 60-100 lần/phút dưới sự chỉ huy của trung tâm phát nhịp tự nhiên của tim gọi là nút xoang. Khi bị rung nhĩ, nút xoang không còn khả năng chỉ huy tim co bóp, thay vào đó, nhiều ổ phát xung bất thường hay còn gọi là “ổ ngoại vị” sẽ hình thành nên những xung động rất nhanh (400 – 600 lần/phút) và rất không đều trong tâm nhĩ. Hậu quả là hai tâm nhĩ không còn co bóp nhịp nhàng mà “rung lên” dẫn tới bơm máu không hiệu quả gây giảm chức năng tim và dễ dàng tại nên cục máu đông tring tâm nhĩ gây tắc mạch.

 Hình ảnh nhịp xoang bình thường (Nonml sinus rhythm)  

Mỗi một chu kỳ co bóp của tim, xung động điện lan toả ra tâm nhĩ trước làm cho tâm nhĩ đang chứa đầy máu co lại, tống máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Sau đó, tâm thất co lại, tống máu vào động mạch

Rung nhĩ (Atrial fibrillation)    

Rung nhĩ Khi xung động không xuất phát từ nút xoang mà xuất phát từ nhiều vị trí khác nhau trong hai buồng tâm nhĩ sẽ dãn đến kích thích cơ nhĩ liên tục hoạt động ở trạng thái “rung lên” chứ không co bóp đồng bộ và nhịp nhàng (Hình 1).

Phân loại rung nhĩ

Căn cứ vào thời gian rung nhĩ, người ta chia rung nhĩ làm những loại sau đây:

Rung nhĩ kịch phát: là rung nhĩ thành từng cơn tự kết thúc trong vòng 7 ngày.

Rung nhĩ bền bỉ: là rung nhĩ kéo dài trên 7 ngày hoặc phải dùng thuốc hoặc biện pháp can thiệp khác mới cắt được cơn.

Rung nhĩ dai dẳng: là những trường hợp rung nhĩ kéo dài trên 1 năm.

Rung nhĩ mạn tính: để chỉ những trường hợp rung nhĩ kéo dài nhiều năm không thể chuyển về nhịp xoang.

Rung nhĩ đơn độc hay vô căn: là những trường hợp rung nhĩ trên những người không có bệnh lý tim mạch thực tổn và cũng không tìm thấy các nguyên nhân khác gây rung nhĩ.       

Rung nhĩ và nguy cơ đột quỵ

Khi bị rung nhĩ, tâm nhĩ đập quá nhanh (chỉ “rung rung” chứ không co bóp thành từng nhát), nên bơm máu không hiệu quả. Khi máu bị ứ trệ lại trong các buồng nhĩ này dễ có khuynh hướng tạo thành cục máu đông. Nếu cục máu đông vỡ ra, trôi theo dòng máu và đi đến não có thể làm tắc động mạch não gây ra đột quỵ. Các nghiên cứu cho thấy, rung nhĩ làm gia tăng nguy cơ đột quỵ gấp 5 lần và đột quỵ do rung nhĩ để lại hậu quả tử vong và tàn phế cao hơn các trường hợp đột quỵ không do rung nhĩ: cứ 1 trong 4 người bị đột qụy do rung nhĩ tử vong trong vòng 30 ngày đầu tiên và thêm 1 người nữa sẽ bị tử vong trong vòng 1 năm sau đó. Nguy cơ đột quỵ liên quan đến rung nhĩ cũng gia tăng theo tuổi, đặc biệt là ở độ tuổi > 65. Một điểm quan trọng khác đó là nguy cơ gia tăng đột quỵ là tương đương cho dù rung nhĩ ở dạng kịch phát hay dai dẳng.

Rung nhĩ và nhồi máu não

Khi rung nhĩ dễ hình thành cục máu đông trong buổng nhĩ do dòng máu bị đọng lại. Cục máu đông theo dòng máu xuống buồng thất và được tìm bơm và hệ thống tuần hoàn và gây tắc mạch ở các cơ quan. Nếu cục máu đông gây tắc hệ thống động mạch não sẽ gây ra chứng đột quỵ, người khác lại thấy rất khó chịu. Khi bị rung nhĩ, bạn có thể có cảm giác như tim đập rất nhanh (đánh trống ngực), khó thở, cảm giác hụt hơi. Choáng váng vã mồ hôi và đau ngực cũng có thể xảy ra.

Khi rung nhĩ không được điều trị và tim thường xuyên phải đập rất nhanh, sẽ làm tim giãn ra và tống máu không hiệu quả. Đây là một nguyên nhân gây ra suy tim sung huyết: khó thở, cảm giác mệt mỏi, giảm khả năng hoạt động thể lực và phù.

Rung nhĩ xuất hiện thành từng cơn sẽ gây ra nhiều stress trong cuộc sống. Đơn giản là bạn không biết cơn loạn nhịp sẽ xuất hiện lúc nào và luồn trong tâm trạng lo lắng, sợ hãi, điều này làm cho bạn ngại đi du lịch hay tham gia các hoạt động cộng đồng và đương nhiên khả năng làm việc của bạn cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Nguyên nhân của rung nhĩ là gi?

Rung nhĩ có thể xảy ra trên những người không có bệnh lý tim mạch, nguyên nhân bắt nguồn từ sự tồn tại những ổ phát xung điện bất thường (ổ ngoại vị) nằm trong các tĩnh mạch phổi và cơ tâm nhĩ trái, các ổ ngoại vị phát xung rất nhanh tạo ra rất nhiều vòng xoáy điện học nhỏ trong cơ tâm nhĩ gây rung nhĩ.

Rung nhĩ có thể là hậu quả của các bệnh tim mạch như hẹp động mạch vành. Tăng huyết áp cũng có mối liên quan chặt chẽ với rung nhĩ. Đặc biệt ở nước ta, rung nhĩ thường gặp ở những bệnh nhân bị bệnh van tim (hở, hẹp van hai lá) và bệnh tim bẩm sinh. Ngoài ra, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim, sau phẫu thuật tại tim… cũng là những nguyên nhân gây ra rung nhĩ.

Một số nguyên nhân ngoài tim mạch có thể gây rung nhĩ như cường tuyến giáp trạng, bệnh phổi cấp tính hoặc mạn tính.

Người cao tuổi có nhiều nguy cơ mắc rung nhĩ hơn người trẻ tuổi. Đái tháo đường, nghiện rượu hay ma túy cũng là những yếu tố làm tăng nguy cơ xuất hiện rung nhĩ.

Cho đến nay, nguyên nhân và cơ chế gây rung nhĩ vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Nhưng có một điều chắc chắn: bạn có thể hạn chế khả năng xuất hiện rung nhĩ bằng cách kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ.

Mục tiêu điều trị rung nhĩ

Điều trị rung nhĩ nhằm vào 2 mục tiêu chính và luôn đồng hành cùng nhau, đó là:

Dự phòng biến chứng do rung nhĩ gây ra: vì rung nhĩ dễ hình thành cục máu đông trong buồng nhĩ, cục máu đông có thể di chuyển theo dòng máu đi khắp cơ thể và gây tắc mạch, hay gặp nhất là mạch não gây đột quỵ não. Để phòng ngừa hình thành cục máu đông, các bệnh nhân bị rung nhĩ được chỉ định dùng thuốc chống đông máu.

Chuyển về nhịp xoang bình thường và kiểm soát nhịp đập của tâm thất:

– Đối với các trường hợp bị rung nhĩ cơn hoặc cấp tính, có thể chuyển vể nhịp bình thường nhờ thuốc, sốc điện.

– Khi bị rung nhĩ mạn tính, việc chuyển về nhịp bình thường khó khăn và hay tái phát nếu chuyển nhịp thành công. Còn đa số bệnh nhân bị rung nhĩ mạn tính được dùng thuốc, nhằm mục đính kiểm soát nhịp thất ở trong giới hạn bình thường, bằng các thuốc có tác dụng ngăn chặn các xung động điện từ nhĩ xuống tâm thất.

– Triệt đốt rung nhĩ bằng năng lượng sóng có tần số radio qua đường ống thông (đốt điện) là phương pháp có thể điều trị triệt để lâu dài một số trường hợp rung nhĩ, đặc biệt là rung nhĩ cơn kịch phát ở những bệnh nhân trẻ tuổi.

Bệnh nhân rung nhĩ nào nên được lựa chọn điều trị bằng phương pháp đốt điện?

Như đã nói ở trên, không phải mọi trường hợp rung nhĩ đều có thể chữa trị bằng phương pháp đốt điện. Tuy nhiên, những trường hợp sau đây có thể hưởng lợi nhiều nhất từ kỹ thuật tiên tiến này:

– Rung nhĩ cơn kịch phát hoặc bền bỉ gây cho ban nhiêu triệu chứng khó chịu.

– Bạn vẫn còn bị rung nhĩ mặc dù đã điều trị tích cực theo đơn bác sĩ.

– Bạn không thể uống thuốc vì các tác dụng không mong muốn của thuốc.

Những trường hợp sau đây là KHÔNG nên tiến hành thủ thuật:

– Bạn đã bị rung nhĩ dai dẳng nhiều năm.

– Các buồng tâm nhĩ, đặc biệt nhĩ trái đã giãn quá nhiều. Các bác sĩ sẽ làm siêu âm tim để đo đạc kích thước tâm nhĩ và tâm thất trước khi quyết định có làm thù thuật hay không.

– Bạn quá cao tuổi, quá béo phì hoặc mắc nhiều bệnh lý nội khoa kết hợp khác, ví dụ bệnh phổi mạn tính.

Nguyên lý của phương pháp đốt điện điểu trị

Triệt đốt rung nhĩ bằng năng lượng sóng tần số radio qua đường ống thông (catheter), phương pháp điều trị triệt để rung nhĩ không cần phẫu thuật, được phát triển trên thế giới từ cuối những năm 90 của thế kỷ 20 mà người đi tiên phong là bác sĩ Michel Haissaguerre và những cộng sự của ông tại Hospital Cardiologique du Haut-Lèvèque ở thành phố Bordeaux (Pháp). Nhóm nhà khoa học tại Bordeaux đã nghiên cứu thấy rằng phần lớn các cơn rung nhĩ kịch phát bắt nguồn từ những ổ phát xung động bất thường nằm trong các tĩnh mạch phổi (đổ vào tâm nhĩ trái) và việc cô lập điện học các tĩnh mạch phổi bằng phương pháp đốt điện qua đường ống thông có thể ngăn ngừa triệt để sự tái phát các cơn rung nhĩ. Gần đây, người ta đã thấy được vai trò của các cơ chất khác trong tâm nhĩ tham gia cơ chế rung nhĩ, các cơ chất này cũng có thể được triệt đốt hiệu quả bằng năng lượng sóng tần số radio.

Nguyên lý của thủ thuật đốt điện rung nhĩ là sử dụng hệ thống lập bản đồ 3 chiều giải phẫu-điện học các buồng tim (3D-electroanatomic mapping system) và các ống thông tim (catheter) nhằm tái tạo cấu trúc tâm nhĩ trái và các tĩnh mạch phổi. Trên cơ sở hình ảnh đó, các bác sĩ sẽ sử dụng những ống thông đặc biệt, có thể phát ra sóng tần số radio triệt đốt từng điểm liên tiếp nhau tạo thành vòng tròn cô lập các tĩnh mạch phổi (là nơi chủ yếu phát ra xung điện bất thường), đồng thời triệt đốt các cơ chất khác ở tâm nhĩ gây rung nhĩ.

Bạn sẽ được gây tê hoặc gây mê và được theo dõi sát sao trong khi các bác sĩ tiến hành thủ thuật đốt điện. Các bác sĩ cũng sẽ tiêm cho bạn heparin, là một loại thuốc chống hình thành cục máu đông. Nhiều trường hợp, một đầu dò siêu âm có thể đưa vào trong thực quản suốt thời gian thủ thuật để ghi lại hình ảnh trong buồng tim.

Các biến chứng có thể gặp của đốt điện?

Cũng giống như mọi thủ thuật can thiệp tim mạch khác, đốt điện rung nhĩ có thể gây một số biến chứng. Tuy nhiên, nhìn chung tỉ lệ biến chứng là thấp và nếu có, phần lớn sẽ được kiểm soát tốt đặc biệt ở những trung tâm tim mạch lớn và giàu kinh nghiệm như viện Tim mạch Việt Nam.

Các biến chứng bao gồm:

– Thủng tim hoặc các mạch máu.

– Đột quỵ.

– Chảy máu.

– Tổn thương thực quản trong trường hợp phải đặt đầu dò siêu âm thực quản.

Bạn cần phải thăm khám và làm những xét nghiệm gì trước khỉ đốt rung nhĩ?

Việc thăm khám và làm các xét nghiệm là nhằm đánh giá xem bạn có chỉ định triệt đốt rung nhĩ hay không? Và nếu có, các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh sẽ giúp tạo thuận cho thủ thuật. Các bác sĩ sẽ:

– Khám lâm sàng.

– Làm các xét nghiệm máu cơ bản.

– Ghi điện tâm đồ.

– Ghi điện tâm đồ liên tục 24 giờ (Holter).

– Làm siêu âm tim qua thành ngực và qua thực quản.

– Chụp cộng hưởng từ hoặc chụp cắt lớp tim mạch để đánh giá về giải phẫu các buồng tim, đặc biệt tâm nhĩ trái và các tĩnh mạch phổi.

Bs. Phan Đình Phong – Viện Tim mạch Việt Nam

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook