Thứ Tư, 25/04/2018 | 21:32

Sốt xuất huyết Dengue là bệnh truyền nhiễm cấp tính gây dịch do virut Dengue gây nên với biểu hiện lâm sàng từ nhẹ có sốt đơn thuần đến sốt xuất huyết không sốc hay có sốc có thể tử vong nếu không phát hiện và điều trị kịp thời.

Muỗi Aedes aegypti là côn trùng trung gian truyền bệnh.

Bệnh mang tính chất toàn cầu. Việt Nam là một trong các nước bệnh lưu hành nặng.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH

Virut Dengue trong nhóm Flavivirus họ Flaviridae, hình cầu đường kính 35 – 50nm, đối xứng, chứa 1 sợi ARN.

Virut nhạy cảm với các dung môi hoà tan lipid như ether, formalin…, dưới tác dụng của tia cực tím virut bị phá huỷ dễ dàng. Virut bị tiêu diệt sau 30 phút ở nhiệt độ 60oC, ở 40oC bị tiêu diệt sau vài giờ nhưng nếu ở trong dung dịch glycerol 50% hay đông lạnh bảo quản ở -700C thì virut có thể sống được vài tháng tới vài năm.

Virut Dengue có 4 týpe huyết thanh D1, D2, D3, D4. Mặc dù 4 týp có tính chất kháng nguyên khác nhau nhưng chắc chắn có 1 số quyết định kháng nguyên chung nhất nên chúng có hiện tượng ngưng kết chéo giữa các týpe. Việt nam lưu hành cả 4 type nhưng phổ biến là Dengue type 2.

DỊCH TỄ HỌC

Nguồn bệnh là người và động vật linh trưởng.

Tình hình dịch

Bệnh lưu hành ở vùng nhiệt đới, chủ yếu ở Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương.

Mỗi năm 50-100 triệu người nhiễm.

Bệnh thường gây dịch ở các vùng đô thị hoặc khu dân cư đông đúc, ngày nay dịch xuất hiện cả ở các vùng nông thôn.

Dịch SXH.D bùng nổ theo chu kỳ với khoảng cách trung bình từ 3 – 5 năm. Bệnh SXH.D ở Việt Nam phát triển theo mùa và cũng có sự khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc. Tại các tỉnh miền Bắc bệnh thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 11, đỉnh cao vào tháng 7, 8, 9 và 10. ở những vùng núi xa xôi hẻo lánh như vùng núi cao nguyên phía Bắc không thấy xuất hiện bệnh, kể cả những năm có dịch bùng nổ lớn.

Miền Nam và miền Trung, bệnh SXH.D xuất hiện quanh năm với tần số mắc nhiều hơn từ tháng 4 đến tháng 11.

Về tuổi mắc bệnh cũng có sự khác biệt giữa các miền. Miền Bắc tất cả lứa tuổi đều mắc bệnh, Miền Nam lứa tuổi mắc bệnh phần lớn là trẻ em.

Vật chủ trung gian

Vật chủ trung gian truyền bệnh chính chủ yếu là muỗi Aedes aegypti, ngoài ra A. albopictus cũng có khả năng truyền bệnh.

A. aegypti phân bố khắp mọi nơi trên thế giới. ở Việt Nam, A. aegypti thường có nhiều ở các thành phố, thị trấn, vùng nông thôn ven biển, đồng bằng và ngày càng mở rộng phân bố tới các thành phố, thị trấn và nông thôn miền núi. A. aegypti sống ở những nơi bùn lầy nước đọng.

Muỗi cái hút máu và truyền bệnh vào ban ngày (sáng sớm và chiều tối).  Muỗi cái thường đẻ trứng ở các dụng cụ chứa nước sinh hoạt, nước mưa như chum vại, bể, lọ hoa và các phế liệu thải có đọng nước mưa như ống bơ… Trứng của A.aegypti có thể chịu đựng ở điều kiện khô ráo cao tới 6 tháng. ấu trùng của A.aegypti tăng trưởng rất tốt ở nhiệt độ 25 – 32oC.

SINH BỆNH HỌC

Sinh lý bệnh

Khi bị nhiễm vi rút dengue xâm nhập vào cơ thể nằm trong các tế bào đơn nhân lớn tại hạch bạch huyết và mảng Payer. Cơ thể chống lại bằng phản ứng kết hợp kháng nguyên kháng thể, kích thích hoạt hoá bổ thể quá trình này giải phóng ra các chất gây viêm: protease, IL2,TNFa, C3a, C5a và các cytokine từ đó dẫn đến hai rối loạn sinh bệnh học thoát huyết tương và rối loạn đông máu.

Tăng tính thấm thành mạch dẫn đến thoát huyết tương và làm giảm thể tích tuần hoàn, đưa đến hiện tượng cô đặc máu, giảm protein trong huyết thanh  gây nên sốc.

Nếu sốc kéo dài sẽ dẫn đến thiếu oxy ở các mô, toan chuyển hoá và tử vong nếu không bồi phục nhanh chóng dịch, các chất điện giải và dung dịch keo. Sốc kéo dài sẽ dẫn đến nguy cơ đông máu nội quản rải rác (DIC).

Theo dõi hematocrite là biện pháp tốt nhất để phát hiện sớm sốc Dengue. Hiện tượng rối loạn đông máu gồm 3 yếu tố tác động: hạ tiểu cầu, biến đổi thành mạch và rối loạn đông máu. Hiện tượng thứ nhất tạo điều kiện cho hiện tượng thứ 2 xuất hiện và tạo ra một vòng xoắn bệnh lý liên hoàn.

Lý giải các trường hợp sốt xuất huyết Dengue nặng là:

– Giả thuyết Hammon nhiễm đồng thời hai type huyết thanh khác nhau của vi rút Dengue.

– Nhiễm chủng vi rút có mãng độc mạnh của Leon Rose là type Dengue 2.

– Thuyết tăng cường miễn dịch của halstead kết quả đáp ứng nhớ lại do bị tái nhiễm với 1 type Dengue khác, đáp ứng lần 2 mạnh hơn nhiều so với lần đầu dẫn tới tình trạng tăng tính thấm thành mạch mạnh.

Giải phẫu bệnh

Xuất huyết dưói da, niêm mạc đưòng tiêu hoá, tim gan, phổi hiếm xuất huyết dưới nhện và não.

Tuỷ xưong suy giảm tất cả các tế bào tạo huyết chỉ phục hồi khi khỏi bệnh.

LÂM SÀNG

Biểu hiện lâm sàng đa dạng, bệnh thường khởi phát đột ngột và diễn tiến qua 4 giai đoạn thời kỳ ủ bệnh, thời kỳ khởi phát, toàn phát và hồi phục. Có thể mô tả lâm sàng sốt xuất huyết Dengue : Sốt xuất huyết Dengue không có dấu hiệu cảnh báo, SXHD có dấu hiệu cảnh báo, SXHD nặng có sốc.

Giai đoạn sốt

Sốt cao liên tục kéo dài từ 2 – 7 ngày.

Da xung huyết hay phát ban, đau đầu, đau mỏi khắp mình, nhức hố mắt, có thể có nổi hạch.

Dấu hiệu dây thắt dương tính.

Chấm xuất huyết dưới da, chảy máu cam, chảy máu chân răng, phụ nữ có thể có hành kinh sớm.

Cận lâm sàng: Hematocrit bình thường, tiểu cầu bình thường hay hơi giảm, Bạch cầu bình thường hay giảm nhẹ.

Các dấu hiệu cảnh báo

Đau bụng vùng gan, hay tăng cảm giác đau.

Nôn liên tục, có dấu hiệu ứ nước trên lâm sàng: bụng chướng, nề mí mắt, xuất huyết niêm mạc ( củng mạc mắt, chảy máu cam nhiều, hành kinh số lượng nhiều).

Mệt mỏi nhiều hay li bì, đôi khi kích thích.

Gan to trên 2cm.

Xét nghiệm có Hematocrit tăng cao tương ứng với tiểu cầu giảm nhanh.

Giai đoạn nguy hiểm

Thường vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 của bệnh, hay gặp nhiều xung quanh ngày thứ 5 của bệnh.

Nhiệt độ có thể giảm nhanh, đôi khi vẫn còn sốt cao.

Tăng tính thấm thành mạch xuất hiện đồng thời với tăng Hematocrit. Thời gian thoát huyết tương có ý nghĩa trên lâm sàng kéo dài từ 24 đến 48 giờ.

Bạch cầu và tiểu cầu giảm thường xẩy ra trước khi xuất hiện hiện tượng thoát huyết tương. Tình trạng thoát dịch có thể phát hiện bằng siêu âm (dịch màng bụng và màng phổi).

Những bệnh nhân sau khi hết sốt không có các dấu hiệu cảnh báo: sốt xuất huyết Dengue không nặng.

Những bệnh nhân có các dấu hiệu cảnh báo sốt xuất huyết Dengue nặng: nếu chúng ta phát hiện sớm điều trị kịp thời, đúng cũng như xứ trí xuất huyết tốt người bệnh sẽ phục hồi nhanh. Nếu không phát hiện và điều trị kịp thời dẫn đến Sốt xuất huyết Dengue nặng.

– Thoát huyết tương: nề mi mắt và căng da, tràn dịch màng bụng, phổi. Hematocrit tăng cao, albumin máu giảm. Xuất hiện Sốc

– Biểu hiện Sốc: mạch nhanh nhỏ khó bắt, chi lạnh, nổi vân tím, thiểu niệu lượng nước tiểu < 20 ml/giờ. Huyết áp tâm thu hạ < 90 mmHg hay giảm < 30 mmHg so với huyết áp nền, hay huyết áp tâm thu và tâm trương kẹt < 20 mmHg.

– Biểu hiện xuất huyết: xuất huyết trên da chấm xuất huyế như đầu đinh ghim, mảng bầm tím, xuất huyết nơi tiêm truyền. Xuất huyết niêm mạc chảy máu cam, chân răng, kinh nguyệt kéo dài số lượng nhiều. Nặng xuất huyết nội tặng chảy máu tiêu hoá, chảy máu cơ, chảy máu phổi, hay xuất huyết não.

– Các rối loạn khác: chức năng gan, suy hô hấp, rối loạn ý thức, rối loạn nhịp tim.

Giai đoạn hồi phục

Xuất huyết dưới da

Ban xuất huyết

Hết sốt, sau giai đoạn nguy hiểm từ 24 đến 48 giờ, dịch được tái hấp thu dần vào trong lòng mạch trong vòng 48 đến 72 giờ phải rất lưu ý tránh truyền dịch nhiều trong lúc này nếu không gây hiện tượng thừa dịch. Toàn trạng người bệnh tốt lên, thèm ăn, các triệu chứng tiêu hoá giảm, huyết động ổn định, tiểu nhiều.

Mảng xuất huyết

XÉT NGHIỆM

Xét nghiệm máu

Tiểu cầu giảm dưới mức 100 G/l, thường gặp vào ngày thứ 2 trở đi

Bạch cầu: Bình thường hoặc hạ. Tăng Plasmocyte (tương bào).

Hematocrit tăng trên 20% so với giá trị bình thường trong giai đoạn thoát huyết tương.

Giảm protein và natri máu. Transaminase huyết thanh tăng nhẹ, trong những trường hợp có dấu hiệu cảnh báo đôi khi tăng cao.

MAC- ELISA

Trong nhiễm virut Dengue tiên phát và thứ phát, phản ứng MAC-ELISA dùng để phát hiện tăng kháng thể kháng Dengue đặc hiệu IgM.

Trong nhiễm virut Dengue cấp tính, kháng thể kháng Dengue IgM dương tính đến 80-90%, vào ngày thứ 4 – 5 của bệnh. IgM tăng nhanh, đạt đỉnh cao sau khoảng 2 tuần của bệnh và giảm dần trong 2 – 3 tháng. Hoặc tìm kháng nguyên NS1 từ ngày đầu đến ngày thứ 4 cảu bệnh.

CHẨN ĐOÁN

Sốt xuất huyết Dengue

Sốt cao đột ngột liên tục từ 2 – 7 ngày và có ít nhât 2 trong các dấu hiệu sau.

Biểu hiện xuất huyết nghiệm pháp dây thắt dương tính, hoặc xuất huyết dưới da, niêm mạc.

Nhức đầu, buồn nôn, chán ăn.

Da xung huyết, phát ban.

Đau cơ khớp.

Cận lâm sàng: Hematocrit bình thường hay tăng.

Số lượng tiều cầu bình thường hay giảm.

Bạch cầu bình thường.

Sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo bao gồm các triệu chứng lâm sàng

SXHD kèm theo các dấu hiệu sau:

Vật vã, li bì, lừ đừ.

Đâu bụng, đau bụng vùng gan.

Gan to > 2cm.

Nôn nhiều.

Xuất huyết niêm mạc.

Tiểu ít.

Hematocrit tăng cao hay  tăng nhanh.

Số lượng tiểu cầu giảm nhanh.

Sốt xuất huyết Dengue nặng

Là SXHD và có một hay nhiều biểu hiện sau:

Sốc giảm thể tích do thoát huyết tương, hay có thoát dịch các màng gây khó thở.

Xuất huyết nặng

Có suy tạng.

Sốt xuất huyết Dengue có sốc: Thường xẩy ra vào ngày thứ 3 – 7 của bệnh: vật vã li bì, lạnh chi,mạch nhanh nhỏ, huyết áp hạ hay kẹt không đo được, tiểu ít, có thể hôn mê.

Xuất huyết nặng; chẩy máu cam khó cầm, rong kinh nặng, xuất huyết trong cơ, nội tạng, suy gan cấp men gan > 1000U/l. Suy thận cấp, rối loạn tri giác.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị sốt xuất huyết Dengue

Điều trị hỗ trợ và phải theo dõi chặt chẽ, phát hiện kịp thời sốc xảy ra để xử trí sớm.

Hạ sốt:

– Chỉ can thiệp hạ sốt khi sốt quá cao và có nguy cơ gây co giật.

– Các biện pháp hạ nhiệt vật lý: Để bệnh nhân ở buồng thoáng mát, mặc quần áo mỏng, rộng, chườm mát..

– Thuốc hạ nhiệt được dùng là: Paracetamol

Trẻ em dưới 1 tuổi           dùng 60 mg/lần

1 – 3 tuổi                           60 – 120 mg/lần

3 – 6 tuổi                           120 mg/lần

6 – 12 tuổi                         240 mg lần

– Tổng liều trong 24 giờ không quá 6 lần và không quá 60 mg/kg. Liều dùng trung bình là 10-15 mg/kg /lần, 3-4 lần trong 24 giờ.

Cấm dùng ASPIRIN hoặc SALYCILATE, analgin, ibuprofen để điều trị vì có thể gây xuất huyết, toan máu.

– Uống vitamin C đơn thuần hoặc kết hợp với rutin (viên Rutin C).

– Bù dịch sớm bằng đường uống:

+ Thường dùng là Oresol (NaCl 3,5g; Bicarbonate Na 2,5g; KCL 1,5g và Glucoza 20g đóng thành gói pha với 1 lít nước).

+ Nếu không có sẵn ORESOL có thể dùng nước trái cây như nước dừa, nước cam, nước chanh đường…

– Truyền dịch:

+ Chỉ định:

Nếu bệnh nhân không uống được, nôn nhiều, có dấu hiệu mất nước.

Hematocrite tăng cao, tiểu cầu hạ mặc dù huyết áp và mạch ổn định.

+ Dịch truyền bao gồm glucose 5% pha với NaCl 0,9% theo tỷ lệ 1:1 hoặc dung dịch  Ringer lactate.

+ Lượng dịch truyền duy trì:

Cân nặng (kg)        Khối lượng dịch duy trì (ml) truyền trong 24giờ

< 10   100/kg

10 – 20         1000 + 50 cho mỗi kg khi trên 10 kg

> 20   1500 + 20 cho mỗi kg khi trên 20 kg

Truyền dịch trong SXH.Dengue không có dấu cảnh báo

Điều trị sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo

Bệnh nhân phải nhập viện, chỉ định truyền dịch nếu người bệnh không uống được, nôn nhiều có dấu hiệu mất nước, lừ đừ, hematocrit tăng cao, mặc dù huyết áp vẫn ổn định.. Khởi đầu tốc độ truyền 6-7ml/kg/giờ trong 1-2giờ sau đó đánh giá lại tình trạng bệng nhân. Nếu tình trạng cảI thiện Hematocrit giảm, huyết động bình thường, nước tiểu nhiều giảm lượng diịch truyền 4-5ml/kg/giờ truyền trong 4-5giờ nếu tiép tục cải huyết áp ổn định, không nôn, tiểu nhiều thiện ngừng truyền (thời gian truyền không quá 24-48giờ).

Nếu tình trạng người bệnh không cải thiện hematocrit tăng, mạch nhanh, huyết áo hạ hay kẹt, nước tiểu ít, phảI sử trí như sốt xuất huyết Dengue có sốc.

Điều trị sốt xuất huyết Dengue có sốc

Điều trị hỗ trợ giống như SXH.Dengue không có dấu hiệu cảnh báo.

– Natri clorua 0,9%, Ringer lactate, glucose 5% (Dextrose 5%).

– Plasma hoặc chất thay thế plasma (HAES Steril 6%, dextran 40, albumin 5%,

50mg/l) hoặc gelatin.

Cách thức truyền:

– Phải thay thế nhanh chóng  lượng plasma mất đi, dung dịch Ringer lactat hoặc dung dịch muối đẳng trương NaCl 0,9%  và glucose 5% theo tỷ lệ 1:1 truyền tĩnh mạch nhanh chóng với tốc độ 15-20 ml/kg cân nặng/giờ. Sau 1 giờ phải kiểm tra lại hematocrite.

– Nếu sau 1 giờ người bệnh ra khỏi tình trạng sốc, huyết áp hết kẹt, mạch quay rõ và trở về bình thường, chân tay ấm, nước tiểu nhiều hơn, thì giảm tốc độ truyền Nếu sau một giờ bệnh nhân đỡ sốc,  huyết áp gần trở về bình thường hoặc hết kẹt, mạch quay rõ, chân tay ấm, Hematocrite giảm thì giảm tốc độ truyền xuống 5ml/kg cân nặng/giờ, trong 3-4 giờ và huyết áp mạch ổn định truyền 3ml/kg cân nặng / giờ  trong những giờ tiếp theo.

– Nếu sau 1 giờ truyền mà tình trạng sốc không cải thiện (mạch nhanh, huyết áp hạ hay kẹt, tiểu ít, hematocrite tiếp tục tăng) thì phải thay thế dịch truyền bằng dung dịch cao phân tử với tốc độ 15 – 20 ml/kg/giờ trong 1 giờ sau đó đánh giá lại.

Nếu sốc cải thiện, hematocrite giảm thì giảm tốc độ truyền cao phân tử xuống 10ml/kg/giờ truyền trong 1 – 2 giờ. Sau đó nếu tình trạng sốc tiếp tục cải thiện và hemtocrit giảm thì giảm tốc độ truyền cao phân tử xuống 7.5 ml/kg/giờ, trong 2 – 3 giờ. Sốc cải thiện và hematocrite giảm thì chuyển sang truyền dịch Ringer lactate hoặc NaCl 0,9%  kết hợp với glucose 5% với tốc độ 5 ml/kg/giờ trong 3-4 giờ và giảm 3 ml/kg/giờ trong những giờ tiếp theo cho đến khi huyết áp, mạch ổn định, hematocrite bình thường, tiểu nhiều thì ngừng truyền.

Nếu sốc vẫn chưa cải thiện đo áp lực tĩnh mạch trung ương (CVP) để quyết định thái độ truyền dịch.

Nếu sốc vẫn chưa cải thiện mà hematocrite giảm xuống rõ rệt mặc dù còn trên 35% thì cần phải thăm khám để phát hiện xuất huyết nội và chỉ định truyền máu tươi toàn phần.

Sốt xuất huyết Dengue nặng  (mạch quay không bắt được, huyết áp không đo được).

Để bệnh nhân nằm đầu thấp và thở oxy. Bơm ringerlactat hay dung dịch muối đẳng trương vào tĩnh mạch 20ml/kg cân nặng trong 15 phút, sau đó đánh giá tình trạng người bệnh.

– Nếu mạch rõ, huyết áp hết kẹt thay thế bằng cao phân tử 10ml/kg cân nặng trong một giờ, tiếp theo truyền ringerlactat bắt đầu 10ml/kg/1 giờ như trong sốc SXHD còn bù.

– Nếu mạch nhanh, huyết áp còn kẹt hay hạ, thay thế dịch cao phân tử 15 – 20 ml/kg/ cân nặng/giờ sau đó đánh giá tình trạng người bệnh nếu cải thiện giảm dịch cao phân tử 6ml/kg/giờ mạch, huyết áp bệnh nhân tiếp tục ổn định chuyên sang truyền như trong sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo bắt đầu tốc độ 7,5ml/kg/giờ.

Nếu sốc vẫn chưa cải thiện mà hematocrite giảm xuống rõ rệt mặc dù còn trên 35% thì cần.

Nếu mạch huyết áp vẫn không đo được bơm tĩnh mạch dung dịch cao phân tử 20 ml/kg/15phút và đo CVP để có hướng xử trí. Nếu mạch huyết áp đo được truyền dung dịch cao phân tử 15 -20ml/kg/giờ sau đó xử trí tiếp như trên.

Những điều cần lưu ý khi truyền dịch

Ngừng truyền dịch khi huyết áp và mạch trở về bình thường, tiểu nhiều, hematocrite bình thường. Nói chung không cần thiết bù dịch nữa sau khi hết sốc 24 giờ.

Cần chú ý đến sự tái hấp thu huyết tương ở ngoài lòng mạch trở lại lòng mạch (giảm hematocrite sau khi ngừng truyền) và nếu tiếp tục truyền dịch sẽ gây tăng thể tích máu, thừa nước dẫn đến suy tim và phù phổi cấp. Khi bình phục sự giảm hematocrite không có nghĩa là do xuất huyết nội tạng vì huyết áp bình thường, tiểu nhiều, mà hematocrite giảm là do sự tái hấp thu. Khi có hiện tượng bù dịch quá tải cần phải dùng thuốc lợi tiểu như furosemid.

Khi điều trị sốc, cần phải chú ý đến điều chỉnh rối loạn điện giải và thăng bằng kiềm toan

Hạ Natri máu thường xảy ra hầu hết các trường hợp sốc nặng và đôi khi có toan chuyển hoá. Do đó cần chú ý điều chỉnh điện giải và thăng bằng kiềm toan.

Truyền máu

Chỉ định:

– Có biểu hiện xuất huyết nặng và hematocrit < 35%

– Sốc không cải thiện mà hematocrite giảm xuống nhanh chóng (hematocrit vẫn > 35%).

– Lượng máu truyền 10 ml/kg/lần.

Truyền khối tiểu cầu khi:

– Số lượng tiểu cầu giảm dưới 30G/L và có biểu hiện xuất huyết rõ rệt.

– Số lượng tiểu cầu dưới 5G/L mặc dù chưa có biểu hiện xuất huyết.

Thở Oxy

Cho tất cả mọi bệnh nhân có sốc.

Sử dụng các thuốc vận mạch

Dopamin liều lượng ban đầu 5mcg/kg/phút.

Khi sốc kéo dài, cần phải đo áp lực tĩnh mạch trung ương (CVP) để quyết định thái độ xử trí. Nếu đã truyền dịch đầy đủ mà huyết áp vẫn hạ và CVP  10 cmH2O thì nên truyền tĩnh mạch.

Chăm sóc và theo dõi bệnh nhân sốc

Giữ ấm, khi đang có sốc cần theo dõi mạch, huyết áp, nhịp thở từ 15 phút đến 30 phút/lần. Đo nhiệt độ 2 – 3 giờ/lần, đo hematocrite cứ 2 giờ/lần trong 6 giờ đầu. Sau đó 4 giờ/lần cho đến khi sốc ổn định.

Ghi lượng nước xuất nhập trong 24 giờ.

Theo dõi tình trạng bụng, phổi, màng tim để theo dõi thoát dịch.

Các biện pháp điều trị khác

Không dùng Corticoid trong điều trị sốc Dengue

Khi có tràn dịch các màng gây khó thở, thở oxy, thở CPAP, không cải thiện phải chọc tháo dịch.

Theo dõi mạch, huyết áp, nhịp thở15 – 30 phút một lần.

Theo dõi và điều tri tổn thương gan cấp.

Chống phù não, co giật.

Lọc máu liên tục khi có suy đa tạng hoặc suy thận cấp huyết động không ổn định.

Đo hematocrits 1 – 2giờ một lần trong 6 giờ đầu của sốc sau 4 giờ một lần.

Ghi lượng nước truyền vào và lượng đào thải ra.

Tiêu chuẩn cho bệnh nhân xuất viện

Hết sốt sau 24 giờ mà không phải do dùng thuốc hạ nhiệt.

Toàn trạng tốt, ăn ngon miệng, tiểu nhiều, mạch huyết áp bình thường.

Hematocrit  bình thường, tiểu cầu trên 100 g/l.

Hết tràn dịch màng bụng, màng phổi   .

PHÒNG BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT

Hiện nay chưa có vacxin phòng bệnh và cũng không có thuốc điều trị đặc hiệu nên việc phòng bệnh chủ yếu dựa vào phòng chống vectơ truyền bệnh. Các biện pháp bao gồm:

Các biện pháp tác động môi trường: nhằm giảm tới mức thấp nhất sự sinh sản của muỗi và như vậy giảm được sự tiếp xúc giữa người với vectơ:

– Cải tạo môi trường: Tác dụng lâu dài với nơi sinh sản của muỗi

– Nâng cấp hệ thống cung cấp nước để hạn chế người dân sử dụng những dụng cụ chứa nước có thể trở thành nơi thuận lợi cho  bọ gậy phát triển

– Can thiệp vào môi trường: Tác động trực tiếp tới các ổ bọ gậy chủ yếu và thứ yếu, quản lý hoặc huỷ hoại các ổ bọ gậy tự nhiên như thoát nước tốt cho các thiết bị cấp nước, loại bỏ các dụng cụ chứa nước, xử lý các chất thải có thể nơi muỗi phát triển như chai lọ, vỏ đồ hộp…

– Diệt muỗi-bọ gậy bằng các biện pháp sinh học hoặc hoá chất.

– Phun thuốc diệt muỗi, dọn dẹp những chỗ muỗi thích đậu, nghỉ như dây treo quần áo, chỗ tối.

Bảo vệ cá nhân: tránh muỗi đốt:

– Dùng hương muỗi, bình xịt muỗi.

– Sử dụng màn và rèm tẩm hoá chất diệt côn trùng.

– Sử dụng quần áo chống muỗi.

Bệnh viện Bạch Mai

BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ:

+ Chế độ ăn giúp người bị sốt xuất huyết nhanh khỏe mạnh

+ Chăm sóc bé bị sốt xuất huyết tại nhà

+ Bệnh sốt xuất huyết do virus Hanta với hội chứng thận, phổi

+ Top 6 loại đồ uống giảm triệu chứng sốt xuất huyết cực tốt

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook