Thứ Bảy, 10/11/2018 | 09:08

Ngày nay, có 3 phương pháp thường được sử dụng để chẩn đoán bệnh mạch vành là nghiệm pháp gắng sức, xạ hình bằng thallium, chụp mạch vành.

Ngày nay, có 3 phương pháp thường được sử dụng để chẩn đoán bệnh mạch vành là nghiệm pháp gắng sức, xạ hình bằng thallium, chụp mạch vành. Tuy nhiên để hạn chế những nguy cơ tử vọng trước hết, bệnh nhân cần được nghỉ ngơi ngay lập tức, nghĩa là phải dừng ngay lập tức mọi loại gắng sức, dùng thuốc nitroglycerin dạng ngậm hoặc xịt dưới lưỡi và đến bệnh viện càng sớm càng tốt để có thể được chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời. Đây là động tác cực kỳ quan trọng, giúp cứu sống rất nhiều bệnh nhân vì chỉ cần một gắng sức rất nhỏ cũng có thể nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân.

1, Nghiệm pháp gắng sức

Nghiệm pháp gắng sức, còn gọi là nghiệm pháp dung nạp gắng sức hay là điện tâm đồ gắng sức, được sử dụng để đánh giá khả năng tưới máu cho cơ tim trong gắng sức. Điện cực nối với dây dẫn được dán vào tay, chân, ngực và hoạt động điện học của tim được đo thông qua một máy trong khi bệnh nhân đi bộ hay khi chạy trên thảm.

2, Xạ hình bằng thallium

Một loại thử nghiệm khác thường được thực hiện cùng với điện tâm đồ gắng sức hay đi trên điện tâm đồ lúc nghỉ có kết quả bất thường. Xạ hình được thực hiện bằng cách tiêm một ít chất đồng vị phóng xạ vào tĩnh mạch rồi dùng máy quét để phát hiện ra sự phát xạ của chùm tia phóng xạ. số lượng tia phóng xạ được phát ra sẽ phản ánh lưu lượng máu cung cấp cho từng vùng khác nhau của cơ tim.

3, Chụp mạch vành

Phương tiện chính xác nhất để chẩn đoán trên một người nghi ngờ bị bệnh mạch vành là chụp mạch vành, hay còn gọi là thông tim. Trong phương pháp này, ống thông được đưa vào trong động mạch vành rồi bơm thuốc cản quang vào mạch vành qua ống thông để quan sát hình ảnh của mạch máu trên màn hình. Kết quả trên màn hình sẽ cung cấp hình ảnh chi tiết từng mạch máu đến tưới máu cho tim cũng như bất kỳ nhánh mạch máu nào bị tắc nghẽn. Trước khi bệnh nhân trải qua bất kỳ phẫu thuật tim mạch nào liên quan đến bệnh mạch vành đểu phải thực hiện thông mạch vành

4, Siêu âm tim

Khi các phương tiện chuẩn đoán bệnh mạch vành cho kết quả không rõ ràng thì người thầy thuốc lâm sàng nên bắt đầu xem xét đến các phương tiện chẩn đoán không gây chảy máu khác. Phương pháp siêu âm, hay còn được gọi là siêu âm tim gắng sức, có vẻ đặc biệt hữu ích trong việc phát hiện ra mạch máubị tắc nghẽn – là dạng bệnh mạch vành thường gặp ở phụ nữ. Siêu âm tim sử dụng những sóng phản âm từ tim để tạo ra hình ảnh tương ứng với hướng và tốc độ của dòng máu. Có thể tiến hành siêu âm tim gắng sức hay siêu âm tim kết hợp với dùng thuốc để làm tăng hiệu quả gắng sức.

Phương pháp điều trị

Có 2 loại đau thắt ngực:

Cơn đau thắt ngực ổn định và cơn đau thắt ngực không ổn định. Đau thắt ngực ổn định là do mảng vữa xơ gây hẹp lòng động mạch vành, xuất hiện lặp đi lặp lại khi người bệnh gắng sức đạt đến 1 mức độ nào đó hay trong cùng 1 hoàn cảnh. Còn hội chứng vành cấp khi đau thắt ngực xảy ra bất kỳ (đau thắt ngực không ổn định), cả lúc nghỉ ngơi hay khi gắng sức nhưng không đỡ khi ngừng gắng sức.

Đau thắt ngực không ổn định rất nguy hiểm nếu không được xử trí kịp thời vì dễ chuyển thành nhồi máu cơ tim. Dấu hiệu chủ yếu để phân biệt giữa đau thắt ngực ổn định và không ổn định là hoàn cảnh xảy ra đau thắt ngực: khi nghỉ hay khi gắng sức. Nếu khi gắng sức với 1 mức độ nhất định nói lên tính chất ổn định, còn nếu xuất hiện khi nghỉ nói lên sự không ổn định và sẽ có nguy cơ chuyển nhồi máu hoặc đột tử.

Bệnh động mạch vành có thể được điều trị bằng thuốc hay bằng phẫu thuật cùng với loại bỏ hay kiểm soát các yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành như cao huyết áp, hút thuốc lá. Chọn lựa hình thức điều trị tuỳ thuộc vào tuổi, thể trạng của bệnh nhân và mức độ nặng của triệu chứng tim mạch.

1, Các nitrat (nitroglycerin, Isordil, Ismo)

Các nitrat này có tác dụng làm dãn mạch vành nên làm tăng lưu lượng máu đến tim. Khi được sử dụng để điều trị cơn đau thắt ngực, có thể sử dụng viên nitrat ngậm dưới lưỡi cho đến khi viên thuốc tan ra hết. Dạng này có tác dụng nhanh. Dạng uống có tác dụng kéo dài hơn. Nitrat dạng thuốc mỡ có thể thoa trực tiếp lên ngực, cánh tay và để có tác dụng kéo dài, người ta áp thuốc mỡ vào một miếng giấy có bọc nhựa. Khi hết thời gian thì miếng nitrat sẽ mất đi hiệu quả làm dãn mạch vành của nó.

2, Thuốc ức chế men chuyển

Nhóm thuốc này cho thấy có tác dụng tích cực trên chức năng của tim và có tác dụng bảo vệ chống lại các cơn nhồi máu về sau ở những phụ nữ bị bệnh mạch vành. Thuốc ức chế men chuyển cũng làm giảm huyết áp và là loại thuốc ít có tác dụng phụ.

3, Thuốc chẹn bêta

Nhóm thuốc này có tác dụng bằng cách làm giảm nhu cầu ôxy cho cơ tim. Bình thường nhịp tim được kích hoạt bởi các chất dẫn truyền hoá học qua các dây thân kinh đên các thụ thể của tim còn được gọi là thụ thể bêta adrenergic , ở những người bệnh mạch vành, mạch vành bị tăc nghẽn sẽ giảm tưới máu cho cơ tim và hệ thần kinh sẽ đáp lại vớii tình trạng thiếu máu này bằng cách gửi nhiều chất dẫn truyền thần kinh đi đến thụ thể nhằm để cho tim co bóp nhanh hơn và để tưới máu nhiều hơn, nhưng mạch vành vốn bị tắc nghẽn nên không thể nào đáp ứng nhu cầu được và do đó làm xảy ra đau thắt ngực.

Thuốc chẹn bêta làm giảm đau thắt ngực bằng cách chiếm chỗ các thụ thể bêta ở tim làm cho các chất dẫn truyền thần kinh không thể tác động lên các thụ thể bêta của tim, và vì vậy thuốc làm cho tim không đập nhanh và qua đó cho phép mạch vành có nhiều thơi gian để tưới máu cho cơ tim.

Tuy nhiên, thuốc chẹn bêta cũng chiếm chỗ các thụ thể bêta ở những phần khác của cơ thể và đôi khi gây ra những tác dụng phụ không mong muốn như khó thở, trầm cảm và mệt. Propranolol là thuốc chẹn bêta cũ có thể gây ra nhiều tác dụng phụ, nhưng các thuốc chẹn bêta thế hệ mới có thể tránh được một số tác dụng phụ không mong mụốn đó. Atenolol là thuốc chẹn bêta có tác dụng chọn lọc trên tim được sử dụng rộng rãi.

4, Thuốc chẹn kênh canxi

Thuốc có tác dụng giữ cho mạch máu không bị co thắt – hiện tượng co thắt động mạch vành là một nguyên nhân gây đau ngực. Thuốc phát huy tác dụng khi canxi hoà tan trong máu và trong dịch cơ thế

Rồi đi vào kênh canxi ở thành mạch máu, lúc này thuốc sẽ chẹn các kênh này, ngăn cản không cho canxi đi vào trong kênh và qua đó làm cho mạch máu không co thắt được.

Hiện nay trên thị trường đã có sẵn nhiều nhóm thuốc chẹn kênh canxi như verapamil, diltiazem và nifedipin, mỗi loại sẽ có tác dụng bảo vệ chống lại ‘bệnh mạch vành theo cách thức riêng. Thông thường, nên dùng thử một trong số các thuốc này để chọn ra một loại có tác dụng điều trị tối ưu cho từng bệnh nhân.

5, Liệu pháp tiêu sợi huyết

Khi bệnh mạch vành diễn tiến thành nhồi máu cơ tim thì loại thuốc làm tan cục máu đông sẽ được sử dụng và được gọi là thuốc tiêu sợi huyết. Gần đây, thuốc tiêu sợi huyết thường được sử dụng nhiều nhất là streptokinase, thuốc được sử dụng qua ống luồn qua cánh tay hay chân để vào động mạch vành. Sau khi xác định vị trí mạch máu bị tắc nghẽn (bằng cách bơm chất cản quang vào ống và chụp phim X quang) streptokinase sẽ được bơm vào trong ống để làm tan cục máu đông.

Phương pháp này rất phức tạp và là thủ thuật gây chảy máu nhưng nếu được thực hiện trong vòng vài giờ khi mới bị nhồi máu cơ tim thì có thể thành công trong đa số bệnh nhân. Streptokinase có thể chảy máu do ngăn chặn quá trình đông máu.

Aspirin trở thành thuốc không thể thiếu được trong điều trị bệnh mạch vành, về mặt cơ chế aspirin không phá huỷ được cục máu đông đã hình thành nhưng nó có khả nàng làm hạn chế kích thước của cục máu đông. Vì lý do này, aspirin thường được dùng cho những bệnh nhân nghi ngờ nhồi máu cơ tim sẽ tiếp tục tiến triển. Aspirin còn được dùng trong những trường hợp bệnh nhân đã biết có bệnb mach vành hay có trên hai yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim nhằm làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ sẽ  xẩy ra trong tương lai.

6, Nong mạch vành

Với biện pháp này, bác sĩ sẽ luồn một ống thông nhỏ có bóng trên đầu vào động mạch và đẩy nó đến chỗ bị hẹp. Khi bóng được bơm lên sẽ nong rộng chỗ tắc nghẽn lại và mở đường cho dòng máu đi qua.

Nong mạch vành bằng bóng

Hoặc người ta còn nong bằng cách đặt stent (giá đỡ). Stent là một ống lưổi thép mỏng, vào trong lòng động mạch thật nhẹ nhàng cho người bệnh, vết mổ nội soi được chích từ háng, thuốc tê được xịt chạy theo mạch máu tới chỗ bị tắc. Thiết bị mổ nội soi sẽ đưa stent tới vị trí tắc của động mạch, dãn ra làm cho dòng máu lưu thông. Bệnh nhân sẽ thấy khoẻ hơn rất nhiều vì máu đã lưu thông và vết chích lại rất nhỏ nên có thể nhanh chóng đi lại bình thường.

7, Giải phẫu ghép động mach vành

Giải phẫu ghép động mạch vành là phẫu thuật tim được thực hiện nhiều nhất trên thế giới để điều trị bệnh thiếu máu cơ tim do bị hẹp động mạch vành.

Các đoạn nối mạch vành này có tác dụng làm tăng lưu lượng máu nuôi cơ tim khi mạch vành bị tắc nghẽn hoặc xơ vữa, và giúp cải thiện chất lượng cuộc sống và tuổi thọ.

Tuy nhiên, không phải tất cả các bệnh nhân tắc nghẽn mạch vành đều phải mổ ghép mà chỉ những người bị tắc nghẽn nặng, điều trị nội khoa không đỡ và không thể nong mạch vành mới cần phải mổ đoạn mạch ghép, thông máu cho tim sau khúc nghẽn đoạn động mạch bị nghẽn

Giải phẫu ghép động mạch vành tim

Trong phương pháp này, người ta dùng một đoạn tĩnh mạch ngắn (tĩnh mạch hiển) ở chân hoặc động mạch vú trong ở ngực hay đoạn động mạch tay quay ở tay để ghép phía trên đoạn động mạch bị hẹp để mà thông cho dòng máu đi vòng qua chỗ bị hẹp. Có khá nhiều bằng chứng cho rằng phương pháp này có hiệu quả đối với những trường hợp đau thắt ngực không đáp ứng với điều trị bằng thuốíc cũng như trường hợp bệnh mạch vành hẹp cả ba nhánh, hay hẹp ở nhánh chính của động mạch vành trái. Khoảng 50% số bệnh nhân thực hiện phẫu thuật không bị đau thắt ngực trong vòng 5 năm sau phẫu thuật.

Mặc dù có được lợi điểm này nhưng giải phẫu ghép động mạch vành tỏ ra không được đảm bảo. Nó không thể ngăn ngừa tình trạng xơ vữa động mạch xảy ra trên đoạn ghép mới. Thực tế, trong một số nghiên cứu gần đây cho thấy, có đến 4/5 trường hợp được giải phẫu đã bị tắc đoạn ghép, đe doạ tính mạng sau 10 năm giải phẫu. Dường như động mạch vú trong là ít bị hẹp hơn cả so với tĩnh mạch ở chân tay hay động mạch tay quay ở tay, vì vậy mạch máu này càng được sử dụng nhiều mặc dù về kỹ thuật khó thực hiện hơn.

Biện pháp phòng bệnh động mạch vành

Bệnh động mạch vành là hậu quả của nhiều biến đổi mà một trong số đó như là tiền sử gia đình thì không thể kiểm soát được. Tuy nhiên có thể làm giảm bớt nguy cơ mắc bệnh mạch vành bằng cách thay đổi một vài thói quen, như bỏ thuốc lá, sẽ làm giảm nguy cơ tử vong do bệnh mạch vành xuống còn một nửa.

Có một số bằng chứng cho rằng những phụ nữ đã bị nhồi máu cơ tim có thể có nhiều cơ hội sống sót bằng cách kiểm soát tăng huyết áp, thậm chí là tăng huyết áp nhẹ. Lợi ích của việc cải thiện mức cholesterol và mỡ trong máu của phụ nữ không rõ ràng bằng nam giới mặc dù một số nghiên cứu gần đây đề xuất rằng sẽ có lợi khi tăng tỷ lệ tương đốỉ giữa HDL và LDL và giảm các triglycerid. Thông thường, thầy thuốc khuyên bệnh nhân nên năng tập thể dục, ăn chế độ ăn ít chất béo và nếu cần thiết có thể dùng thuốc để kiểm soát cholesterol và lipid quá cao.

Khi so sánh với những người không uống rượu, người ta nhận thấy những phụ nữ trên 50 tuổi dùng 1 – 20 cốc rượu mỗi tuần thì nguy cơ mắc bệnh mạch vành thấp hơn, có lẽ là do rượu làm tăng HDL. Lợi điểm tương tự cũng xảy ra đối với nam giới dùng rượu, nhưng phải cân nhắc giữa lợi ích này với các nguy cơ do dùng rượu gây ra như nghiện rượu, tổn thương gan.

Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng ngày càng có nhiều bằng chứng cho rằng giảm cân là một chiến lược điều trị có hiệu quả chống lại bệnh mạch vành. Tập thể dục là một phần quan trọng trong việc giảm cân, ngoài ra thể dục còn có những lợi ích trên hệ tim mạch.

Người bị tiểu đường type I (phụ thuộc insulin) có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim bằng cách kiểm soát tốt đường huyết và dùng liệu pháp insulin mạnh. Vấn đề kiểm soát chặt chẽ đường huyết có mang lại hiệu quả tương tự trong tiểu đường type II hay không hiện vẫn đang còn nghiên cứu.

Chẩn đoán và điều trị bệnh động mạch vành theo phương pháp mới

Yhocvn.net

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook