Thứ Ba, 20/11/2018 | 14:53

Lá lách người lớn bình thường chỉ nặng 150 gram, kích thước 4 x 7 x 11 cm, là nơi tập trung lớn nhất các mô bạch huyết trong cơ thể. Lá lách nằm bên dưới cơ hoành trái và tiếp xúc vào dạ dày, thận trái, và cơ hoành, dây chằng vị lách, dây chằng thận lách, và dây chằng hoành lách. Các dây chằng vị lách chứa các mạch dạ dày ngắn, có thể bị tổn thương dễ dàng trong các biện pháp can thiệp trong khu vực.

Bất thường cấu trúc của lá lách luôn luôn phải được xem xét, bao gồm cả lá lách lang thang, đa lách, asplenia, hoặc lá lách phụ. Lá lách phụ là phổ biến nhất của các dị thường lách (> 1% của tất cả các bệnh). Lá lách phụ đơn độc hoặc nhiều có thể được tìm thấy trong tuyến tụy, rốn lách, túi nhỏ hơn, sau phúc mạc, gan, hoặc mạc treo ruột.

Áp xe có thể khu trú hay lan tỏa. Áp xe nhỏ đơn độc hoặc đa ổ áp xe có xu hướng vẫn còn khu trú trong nang lách. Áp xe tiến triển ở cực trên của lá lách có thể xâm lấn vào màng phổi. Áp xe có nguồn gốc từ cực thấp có thể liên quan đến độ cong lách và tiếp xúc với lòng đại tràng. Dạ dày và tuyến tụy có thể bị ảnh hưởng một cách tương tự.

Nguyên nhân áp xe lách đa dạng, được tóm tắt như sau:

+ Những bệnh nhân trong nhóm này thường là ức chế miễn dịch (bao gồm ghép tạng và nhiễm HIV) hay nhiễm trùng huyết áp đảo. Gặp trong Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, những người lạm dụng thuốc tiêm tĩnh mạch và những bệnh nhân trải qua hóa trị liệu lâu dài .

+ Nhóm bệnh nhân bị nhồi máu lách (chấn thương, bệnh hồng cầu hình liềm, viêm mạch). Hay 1 nhiễm trùng tái đi tái lại (viêm phổi, viêm túi mật)

+ Nguyên nhân thứ phát từ áp xe tụy, thủng dạ dày hay áp xe dưới hoành

Bệnh sử áp xe lá lách:

Các dấu hiệu và triệu chứng của áp xe lách không cụ thể rõ ràng. Vì vậy, áp xe lách vẫn là một thách thức chẩn đoán đáng kể. Các bộ ba cổ điển của sốt, đau góc phần tư phía trên bên trái, và lách to được ghi nhận chỉ có khoảng 1/3 bệnh nhân.

Các triệu chứng của áp xe lách có thể thay đổi và phụ thuộc vào vị trí, kích thước, và sự tiến triển của ổ apxe. Nó cũng có thể là cấp tính, bán cấp hoặc mãn tính. Sâu xa, áp xe nhỏ có thể không đau và kèm theo các triệu chứng nhiễm trùng.

Sốt (> 90%) có thể là trung bình, liên tục, không liên tục, hoặc thậm chí không có.

Đau bụng (> 60%) thường xảy ra đột ngột, với đau nhất là điểm hạ sườn trái (> 39%). Nên nhớ đau thường ở vị trí lách.

Sự tham gia của màng phổi hoành có thể gây ra đau vai.

Đau ngực trái ,đau kiểu màng phổi (> 15%), đau tăng khi ho hoặc thở ra mạnh.

Khó chịu, khó tiêu …

Triệu chứng thực thể:

Đau bụng (50%) có thể có hoặc không có thể được đi kèm với co cứng thành bụng ở góc phần tư phía trên bên trái. Có thể có phù nề của các mô mềm nằm phía trên lá lách.

Áp xe lách

Lách to (<50%) khi thấy được, có thể là do chẩn đoán sớm kết quả từ việc sử dụng rộng rãi các phương pháp chẩn đoán hình ảnh.

Các kết quả Xquang ngực là không đặc hiệu : lu mờ ở đáy phổi trái (> 30%), giảm rales đáy phổi (> 21%), hoặc cơ hoành trái cao bất thường(> 15%).

Đối tượng có nguy cơ bị áp xe

Những bệnh nhân trong nhóm này thường là ức chế miễn dịch (bao gồm ghép tạng và nhiễm HIV) hay nhiễm trùng huyết áp đảo. Gặp trong Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, những người lạm dụng thuốc tiêm Tĩnh mạch và những bệnh nhân trải qua hóa trị liệu lâu dài.

+ Nhóm bệnh nhân bị nhồi máu lách (chấn thương, bệnh hồng cầu hình liềm, viêm mạch). Hay 1 nhiễm trùng tái đi tái lại (viêm phổi, viêm túi mật).

+ Nguyên nhân thứ phát từ áp xe tụy, thủng dạ dày hay áp xe dưới hoành.

Chỉ định:

Sau khi chẩn đoán áp xe lách được thực hiện, bệnh nhân phải nhập viện và điều trị. Điều trị phụ thuộc vào tình trạng chung, bệnh phối hợp của bệnh nhân, và rối loạn ban đầu (nếu có), cũng như kích thước và vị trí của áp xe.

Theo kinh nghiệm phổ kháng sinh rộng có vai trò chính trong việc điều trị ban đầu của áp xe lách. Sự thành công của điều trị kháng sinh không bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của nhiều áp xe hoặc nhiễm đa trùng. Việc lựa chọn kháng sinh phù hợp với kết quả nuôi cấy.

Dẫn lưu qua da đã được chấp nhận như là một phương pháp điều trị hiệu quả và ít xâm lấn hơn so với can thiệp phẫu thuật ở những bệnh nhân được lựa chọn. Tỉ lệ thành công báo cáo của ống dẫn lưu qua da là 67-100%. Như vậy ống dẫn lưu bảo tồn lá lách và tránh nguy cơ nhiễm trùng hậu phẫu cắt lách là tốt nhất. Ống dẫn lưu qua da cũng có thể được sử dụng như một cầu nối phẫu thuật ở bệnh nhân trên lâm sàng không ổn định hoặc ở những bệnh nhân có bệnh phối hợp nhiều.

Ống dẫn lưu qua da có thể sẽ hữu ích ở những bệnh nhân có một hoặc tập hợp nhiều và nếu tính chất của áp xe cho phép một ống dẫn lưu xâm lấn tối thiểu. Đa Áp xe, có nhiều hốc nhiễm khuẩn và các mảnh vụn hoại tử thường không đáp ứng với ống dẫn lưu qua da.

Phẫu thuật được dành riêng cho bệnh nhân ổn định và không đáp ứng với ống dẫn lưu qua da. Tùy thuộc vào chuyên môn sẵn , thủ tục, nội soi hoặc mổ hở có thể được xem xét.

Chống chỉ định:

Chống chỉ định với ống dẫn lưu qua da như sau:

Áp xe nhiều vị trí hoặc vỡ vụn

Nhiều áp xe nhỏ

Rối loạn đông máu không kiểm soát

Áp xe xác định kém trên CTscan hoặc siêu âm

Lan tràn huyết thanh trong khoang bụng

Không có đường an toàn cho dẫn lưu

Chống chỉ định tương đối cho ống dẫn lưu qua da bao gồm những điều sau đây:

Áp xe lách thứ cấp để lây lan từ một quá trình trước đó, chẳng hạn như áp xe lớn khác ban đầu (ví dụ, viêm tụy, thủng ung thư ruột kết) mà không thể được loại trừ bằng phương pháp này.

Áp xe vỡ

Một tổn thương viêm tấy hoặc chưa được mô tả trên CT scan hoặc siêu âm

Yhocvn.net

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook