Thứ Bảy, 18/08/2018 | 11:03

Xét nghiệm máu cho biết những bệnh gì, cách đọc chỉ số xét nghiệm

Máu là một tổ chức liên kết lỏng màu đỏ lưu thông trong hệ tuần hoàn. Máu gồm hai thành phần chính là Huyết cầu (các tế bào máu) và huyết tương:

+ Huyết cầu hay còn gọi là thành phần hữu hình gồm ba loại tế bào là hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Phần huyết cầu chiếm khoảng 44-46% thể tích máu toàn phần.

+ Huyết tương (thành phần vô hình) là là phần lỏng của máu trong đó có tất cả các chất còn lại như :Các chất vô cơ : Na+, K+, Ca 2+, Mg2+, Cl-, Fe2+… Các chất hữu cơ như là protein, đương ,acid béo, tryglycerid, fibrinogen, ure…Phần này chiếm khoảng 54-56% thể tích máu toàn phần.

Do hai thành phần riêng biệt với thể tích khác nhau nên đây là cơ sở của xét nghiệm đo thể tích khối tế bào máu.

Màu sắc của máu:

Máu có màu đỏ tươi khi đủ oxy gọi là máu động mạch, khi thiếu oxy máu sẽ có màu đỏ thẫm và được gọi là máu tĩnh mạch.

Độ quánh của máu:

Độ quánh của máu phụ thuộc vào các thành phần hữu hình, các chất vô cơ, nồng độ protein và các thành phần khác trong huyết tương. Bình thường độ quánh của máu toàn phần cao gấp 4,5 lần, của huyết tương cao gấp 2 lần so với nước cất.

Độ lắng của máu:

Tỷ trọng của máu toàn phần trung bình là 1,05-1,06. Tỷ trọng riêng biệt của huyết cầu trung bình là 1,1 và huyết tương trung bình là 1,03. Đây là cơ sở của xét nghiệm đo tốc độ lắng.

Trọng lượng của máu:

Trọng lượng của máu toàn phần trung bình chiếm khoảng 6-8% tương đương 1/3 trọng lượng cơ thể.

pH trong máu:

pH của máu rất ổn định ở mức 7,33-7,45. pH này ổn định được là nhờ hệ thống đệm của máu thông qua hoạt động hô hấp của phổi và bài tiết của thận.

Áp suất thẩm thấu của máu bình thường là 7,5 atm. Áp suất này được tạo nên chủ yếu là nhờ nồng độ ion trong huyết tương, đặc biệt là Na+

Xét nghiệm máu cho biết những bệnh gì?

Xét nghiệm máu còn giúp chúng ta biết thêm về những bệnh hay nguy cơ mắc bệnh.

Điều kiện để có kết quả xét nghiệm chính xác

+ Thời điểm lấy máu làm xét nghiệm tốt nhất là vào buổi sáng.

+ Nhịn ăn, không uống nước ngọt, sữa, nước hoa quả.

+ Tránh sử dụng các chất kích thích như rượu, chè, cà phê, thuốc lá trong vòng 12 tiếng trước khi làm xét nghiệm máu là tốt nhất nếu không thì cũng cần tránh sử dụng vài giờ trước khi lấy máu.

Các chỉ số sinh hóa máu của các xét nghiệm làm không đúng thời điểm, sau ăn hoặc sau khi dùng các chất kích thích sẽ cho kết quả không chính xác.

Tuy nhiên, không phải bất kỳ xét nghiệm máu nào cũng cần nhịn đói. Chỉ một số bệnh cần kiểm tra đường huyết thì phải nhịn đói khi xét nghiệm: bệnh liên quan đường và mỡ (tiểu đường), bệnh về tim mạch (cholesterol, triglycerid, HDL, LDL…), bệnh về gan mật. Còn lại những xét nghiệm bệnh khác (khoảng 300 xét nghiệm) như HIV, suy thận, cường giáp, Alzheimer (mất trí nhớ ở người già)… không cần để bụng đói.

Xét nghiệm máu cho biết những bệnh gì, cách đọc chỉ số xét nghiệm
Xét nghiệm máu cho biết những bệnh gì, cách đọc chỉ số xét nghiệm

Xét nghiệm máu biết được những bệnh gì?

Có rất nhiểu bệnh có thể phát hiện được qua xét nghiệm máu. Thông thường khi khám sức khỏe định kỳ người khám sẽ được thực hiện những xét nghiệm máu sau:

+ Xét nghiệm công thức máu cho biết số lượng hồng cầu, bạch cầu và các tế bào máu khác, qua đó để biết người khám có bị thiếu máu hoặc bị một số bệnh máu hay không.

+ Xét nghiệm đường máu: phát hiện bệnh tiểu đường.

+ Xét nghiệm mỡ máu: bao gồm nồng độ cholesterol và triglyceride trong máu, qua đó đánh giá nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

+ Xét nghiệm viêm gan B: phát hiện bệnh viêm gan B.

+ Xét nghiệm HIV: phát hiện nhiễm HIV.

Xét nghiệm máu để phát hiện ung thư sớm.

Ngoài ra tùy từng gói khám mà có thể có thêm những xét nghiệm máu khác. Với xét nghiệm nước tiểu trong khám sức khỏe định kỳ thường bao gồm:

+ Xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu: qua đó có thể phát hiện các bệnh ở thận, đường tiết niệu và một số bệnh toàn thân như bệnh tiểu đường.

+ Một số xét nghiệm khác tùy theo gói khám như xét nghiệm tìm ma túy trong nước tiểu.

+ Xét nghiệm máu khi khám sức khỏe có thể phát hiện được một số bệnh xã hội (bệnh lây qua đường tình dục) như viêm gan B, HIV, song nhiều bệnh khác như lậu cầu, sùi mào gà, giang mai v.v…thì không phát hiện được mà phải làm những xét nghiệm đặc hiệu.

Cách đọc các chỉ số của máu

+ GLUCOSE là đường trong máu. Giới hạn bình thường từ 4,1-6,1 mnol/l.

GLU (GLUCOSE): Đường trong máu.

Giới hạn bình thường từ 4,1-6,1 mnol/l. Nếu vượt quá giới hạn cho phép thì tăng hoặc giảm đường máu. Tăng trên giới hạn là người có nguy cơ cao về mắc bệnh tiểu đường.

+ URE (Ure máu): là sản phẩm thoái hóa quan trọng nhất của protein được thải qua thận.

Giới hạn bình thường: 2.5 – 7.5 mmol/l.

+  SGOT & SGPT: Nhóm men gan

Giới hạn bình thường từ 9,0-48,0 với SGOT và 5,0-49,0 với SGPT. Nếu vượt quá giới hạn này chức năng thải độc của tế bào gan suy giảm.

+  GGT: Gama globutamin, là một yếu tố miễn dịch cho tế bào gan. Bình thường nếu chức năng gan tốt, GGT sẽ có rất thấp ở trong máu (Từ 0-53 U/L). Khi tế bào gan phải làm việc quá mức, khả năng thải độc của gan bị kém đi thì GGT sẽ tăng lên -> Giảm sức đề kháng, miễn dịch của tế bào gan kém đi. Dễ dẫn tới suy tế bào gan.

+  Nhóm mỡ máu: Bao gồm CHOLESTEROL, TRYGLYCERID, HDL-CHOLES, LDL-CHLES

Giới hạn bình thường của các yếu tố nhóm này như sau:

Giới hạn bình thường từ 3,4 – 5,4 mmol/l với CHOLESTEROL.

Giới hạn bình thường từ 0,4 – 2,3 mmol/l với TRYGLYCERID.

Giới hạn bình thường từ 0,9 – 2,1 mmol/l với HDL-Choles.

Giới hạn bình thường từ 0,0 – 2,9 mmol/l với LDL-Choles.

Nếu 1 trong các yếu tố trên đây vượt giới hạn cho phép thì có nguy cơ cao trong các bệnh về tim mạch và huyết áp. Riêng chất HDL-Choles là mỡ tốt, nếu cao nó hạn chế gây xơ tắc mach máu. Nếu CHOLESTEROL quá cao kèm theo có cao huyết áp và LDL-Choles cao thì nguy cơ tai biến, đột quỵ do huyết áp rất cao.

+  BUN (Blood Urea Nitrogen) = ure (mg) x 28/60; đổi đơn vị: mmol/l x 6 = mg/dl.

Tăng trong: bệnh thận, ăn nhiều đạm, sốt, nhiễm trùng, tắc nghẽn đường tiểu…

Giảm trong: ăn ít đạm, bệnh gan nặng, suy kiệt…

BUN: là nitơ của ure trong máu.

Giới hạn bình thường 4,6 – 23,3 mg/dl. -> Bun = mmol/l x 6 x 28/60 = mmol/l x 2,8 (mg/dl).

Tăng trong: suy thận, suy tim, ăn nhiều đạm, sốt, nhiễm trùng..

Giảm trong: ăn ít đạm, bệnh gan nặng..

+  URIC (Acid Uric = urat): là sản phẩm chuyển hóa của base purin (Adenin, Guanin) của ADN & ARN, thải chủ yếu qua nước tiểu.

Giới hạn bình thường: nam 180 – 420, nữ 150 – 360 (đơn vị: umol/l).

Tăng trong:

Nguyên phát: do sản xuất tăng, do bài xuất giảm (tự phát) -> liên quan các men: bệnh Lesh Nyhan, Von Gierke..

Thứ phát: do sản xuất tăng (u tủy, bệnh vảy nến..), do bài xuất giảm (suy thận, dùng thuốc, xơ vữa động mạch..).

Bệnh Gout (thống phong): tăng acid uric/ máu có thể kèm nốt tophi ở khớp & sỏi urat ở thận.

Giảm trong: bệnh Wilson, thương tổn tế bào gan..

+  CRE (Creatinin): là sản phẩm đào thải của thoái hóa creatin phosphat ở cơ, lượng tạo thành phụ thuộc khối lượng cơ, được lọc qua cầu thận và thải ra nước tiểu; cũng là thành phần đạm ổn định nhất không phụ thuộc vào chế độ ăn -> có giá trị xác định chức năng cầu thận.

Giới hạn bình thường: nam 62 – 120, nữ 53 – 100 (đơn vị: umol/l).

Tăng trong : bệnh thận, suy tim, tiểu đường, tăng huyết áp vô căn, NMCT cấp…

Giảm trong : có thai, sản giật…

Kết quả miễn dịch

Anti-HBs: Kháng thể chống vi rút viêm gan siêu vi B trong máu (ÂM TÍNH < = 12 mUI/ml).

HbsAg: Vi rút viêm gan siêu vi B trong máu (ÂM TÍNH)

Theo Bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, giám đốc Bệnh viện Ung bướu TP HCM, hiện nay rất nhiều người muốn xét nghiệm máu để phát hiện ung thư sớm. Theo ông dấu hiệu sinh học ung thư là các chất được tìm thấy trong máu, nước tiểu hay các loại mô của bệnh nhân, giúp việc phát hiện và chẩn đoán một số loại ung thư. Tuy nhiên, nếu chỉ đo các dấu hiệu này thôi thì chưa đủ để chẩn đoán bệnh vì nó có thể lên cao ở người bị bệnh lành tính hay không tăng ở người bệnh ung thư, nhất là khi bệnh ở thời kỳ sớm.

Vì vậy, kết quả xét nghiệm máu để tìm dấu hiệu sinh học ung thư chỉ là một biện pháp kỹ thuật bổ sung phương tiện cho thầy thuốc nhằm phát hiện sớm ung thư. Để tìm nguyên nhân cần làm những xét nghiệm chẩn đoán cận lâm sàng khác (nội soi sinh thiết, siêu âm, MRI, CT Scanner, X-quang…) và theo dõi sự tiến triển của ung thư khi bệnh nhân đã và đang điều trị, giúp bác sĩ định phác đồ điều trị phù hợp cho bệnh nhân trước khi điều trị ung thư.

Yhocvn.net

BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ:

+ Tìm hiểu về phương pháp xét nghiệm máu tìm dấu ấn ung thư

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook