Xã hội càng phát triển thì nhu cầu bảo vệ và nâng cao sức khỏe càng được quan tâm, tạo điều kiện cho sự phát triển và mở rộng các loại hình thực phẩm chức năng. Ngoài các sản phẩm có nguồn gốc sinh học và bán tổng hợp, hiện nay, sản phẩm có nguồn gốc thảo dược (đông dược) cũng phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, đây cũng là lý do để nhà sản xuất trộn trái phép thuốc tân dược vào thực phẩm chức năng, trong đó có các chất ức chế Phosphodiesterase -5 (PDE-5). Tạp chí Thử nghiệm Ngày nay xin trích đăng kết quả nghiên cứu “Xác định các chất ức chế phosphodiesterase -5 trộn trái phép trong chế phẩm đông dược bằng HPTLC” của nhóm các tác giả: ThS. Đào Thị Cẩm Minh (Khoa Dược Trường Đại học Y Dược Huế), ThS. Nguyễn Thị Thanh Huyền (Khoa Hóa trường Cao đẳng Dược Trung ương Hải Dương) PGS, TS Nguyễn Thị Kiều Anh (Trường Đại học Dược Hà Nội) được công bố tại “Hội nghị khoa học kiểm nghiệm thực phẩm 2018”.
PDE-5 có tác dụng khôi phục và duy trì sự cương dương khi có kích thích tình dục bằng cách ngăn chặn một cách có chọn lọc tiến trình phân hủy của cGMP ở trong thể hang dương vật. Các thuốc này không thể nào làm khởi phát hay gây nên sự cương dương khi không có sự kích thích tình dục, vì khi đó không có sự phóng thích NO (nitric oxide) vào thể hang dương vật. Nhóm thuốc ức chế chọn lọc PDE-5 dạng viên uống hiện có 3 loại: Sildenafil, vardenafil và tadalafil.
Sau hàng loạt các nỗ lực tìm kiếm các phương pháp điều trị từ các loại thuốc uống như thuốc đồng vận với dopamine như apomorphine; các loại thuốc chẹn thụ thể 2adrenergic như yohimbine… đến các liệu pháp tiêm vào thể hang, viên đặt niệu đạo, ống hút chân không cho kết quả không khả quan hoặc có nhiều tai biến, gây khó chịu cho bệnh nhân, thì sildenafil, thế hệ đầu tiên của nhóm thuốc ức chế PDE-5 ra đời, có thể nói là một cuộc cách mạng trong điều trị rối loạn cương dương.
Sildenafil đã được đưa vào thử nghiệm lâm sàng ở Đức từ năm 1995 và năm 1998 đã được cơ quan dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chứng nhận và cho phép lưu hành rộng rãi. Mặc dù cơ chế tác dụng của các loại thuốc này là giống nhau nhưng chúng khác nhau về dược động học, cấu trúc phân tử của sildenafil và vardenafil tương đối giống nhau trong khi tadalafil thì lại rất khác với 2 loại này.Cả 3 thuốc trên đều có tác dụng ức chế chọn lọc PDE-5 ở các nồng độ thuốc khác nhau.
Chỉ số Sildenafil25-100 mg Tadalafil20 mg Vardenafil10 – 20 mg
IC50 trên PDE-5 (nmol/L) 3,5 – 3,9 0,94 0,7
Tmax (giờ) ~1 2 0,9 – 0,7
T1/2 (giờ) 4 17,5 4,2 – 3,9
Cmax 127 – 560 ng/mL 378 μg/L 9,05 – 20,9 μg/L
Dưới đây là bảng dược động học của thuốc:
Cmax: Nồng độ tối đa của thuốc trong huyết tương.
IC50 cho PDE-5: Nồng độ của thuốc cần thiết để ức chế 50% hoạt tính của PDE-5.
T1/2: Thời gian bán hủy của thuốc.
Tmax: Thời gian để nồng độ thuốc đạt tối đa trong huyết tương.
Tất cả các thuốc ức chế PDE-5 đều hoạt động thông qua cơ chế NO/cGMP. Vì lý do này, tadalafil và vardenafil được cho rằng có khả năng tương tác đến tác dụng hạ huyết áp và chống đông máu của nitrate. Điều này cũng có ởsildenafil.Vardenafil và tadalafil có khả năng gây giãn mạch. Vì vậy, ở các bệnh nhân đang điều trị với các thuốc giãn mạch thì không nên dùng thuốc ức chế PDE-5…
Vì những lý do này, việc trộn trái phép PDE-5 trong chế phẩm đông dược và thực phẩm bảo vệ sức khỏe sẽ gây những tác hại lớn với người sử dụng.
Để có thể định tính và định lượng đồng thời các chất PDE – 5 trộn trái phép trong chế phẩm đông được, thực phẩm bảo vệ sức khỏe lưu hành trên thị trường Việt Nam, nhóm các tác giả: ThS. Đào Thị Cẩm Minh (Khoa Dược Trường Đại học Y Dược Huế); ThS. Nguyễn Thị Thanh Huyền(Khoa Hóa trường Cao đẳng Dược Trung ương Hải Dương)PGS. TS Nguyễn Thị Kiều Anh(Trường Đại học Dược Hà Nội)… đã thực hiện đề tài “Xây dựng phương pháp xác định các chất ức chế phosphodiesterase -5 trộn trái phép trong trong chế phẩm đông dược bằng sắc ký lớp mỏng (HPTLC) hiệu suất cao”.
Phương pháp xác định các chất ức chế phosphodiesterase – 5 trộn trái phép trong trong chế phẩm đông dược bằng HPTLC của nhóm tác giả đã sử dụng chất chuẩn gồm sildenafil citrat, tadalafil (chuẩn Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương), vardenafil (chuẩn Dược điển châu Âu).
Mẫu tự tạo thêm chuẩn vào nền mầu viên nang, viên hoàn, cao thuốc dựa trên bài thuốc Sâm nhung bổ thận, Minh Mạng thang, Điều nguyên cứu bản thang. Mẫu thực gồm 24 mẫu chế phẩm đông dược, thực phẩm bảo vệ sức khỏelưu hành tại Việt Nam.
Điều kiện sắc ký được khảo sát và lựa chọn là phương pháp HPTLC gồm pha tĩnh HPTLC silica gel 60 F254, phát hiện dưới đèn UV 254 nm và quét phổ vết tương ứng của chất, phân tích trên máy scanner để định tính và lựa chọn bước sóng định lượng.
Điều kiện xử lý mẫu cũng đượckhảo sát và lựa chọnthực nghiệm bằng các hệ dung môi chiết:Methanol, methanol-nước (70:30), methanol-nước-ammoniac 25%(75:25:1), acetonitrile để từ đó lựa chọn dung môi cho hiệu suất chiết cao.
Phương pháp đã được thẩm định theo hướng dẫn của AOAC, ICH với các tiêu chí gồm độ đặc hiệu, độ phù hợp của hệ thống, độ chọn lọc, khoảng tuyến tính, giới hạn phát hiện (LOD), giới hạn định lượng (LOQ), độ lặp lại, độ đúng.
Với việc lựa chọn điều kiện sắc ký là hệ ethyl acetat-isopropanol-amoniac 25% (45:5:2,6) cho Rf của sildenafil, vardenafil, tadalafil tương ứng 0,21; 0,35; 0,56. Bước sóng định lượng đối với sildenafil, vardenafil và tadalafil lần lượt là 304 nm,251nm và 285 nm… Kết quả thu được là:
Chỉ tiêu Yêu cầu Kết quả
Độ chọn lọc Tương đương Rf
Hệ số tinh khiết ≥ 0,99
Hệ số chồng phổ ≥ 0,99 Sắc ký đồ mẫu nền không có pic tại Rf của 3 chất chuẩn. Sắc ký đồ mẫu chuẩn và mẫu chuẩn trên nền mẫu có hình dạng và màu sắc Rf tương đương nhau, hệ số chồng phổ của 3 chất ≥ 0,99.
Độ phù hợp của hệ thống RSD ≤ 2,0%
(n=6) S pic với RSD của sildenafil là 1,4%;Tadalafil là 1,9%; Vardenafil là 1,5%
Độ tuyến tính r ≥ 0,99 Sildenafil 1: y = 3214,3x + 10030 (r=0.9971)
Tadalafil : y 11012x + 3277,1 (r=0,9957)
Vardenafil : y = 8645,1x + 2672,2 (r=0,9969)
LOD và LOQ LOD là nồng độ thấp nhất có S/N≈3
LOQ là nồng độ thấp nhất có S/N≈10 Sildenafil: LOD = 157ng/ml; LOQ=518 ng/ml
Tadalafil:LOD = 174 ng/ml; LOQ = 573 ng/ml
Vardenafil: LOD = 188 ng/ml; LOQ =620 ng/ml
Độ đúng Độ thu hồi 90-107% 90,2 – 105,8% (n=6)
Độ chính xác RSD ≤ 5,3%
(n=6) Sildenafil: RSD = 1,11% – 3,44%
Tadalafil:RSD = 0,91% – 4,90%
Vardenafil: RSD = 1,40% – 4,74%
Ứng dụng phương pháp vào phân tích 24 mẫu thực tế, phát hiện 6 mẫu có PDE-5:
Tên mẫu Hàm lượng/1 liều (mg/liều)
Sildenafil Tadalafil Vardenafil
VNP03 69,61
VNP04 5,19 9,78
VNP09 58,08 16,27
VNP15 49,97 13,04
VNP24 70,78 11,66
VNP24 15,92
Từ những kết quả thu được, nhóm tác giả đưa ra kết luận: Phương pháp được xây dựng,triển khai với hệ dung môi ethylacetat-isopropanol-amoniac 25% (45:5: 2,6) có khả năng phân tách sildenafil,tadalafil vàvardenafil.Bước sóng quét phổ lần lượt là 304 nm, 251 nm và 285 nm.
Quy trình phân tích được thẩm định theo AOAC, ICH với r ≥ 0,99; Độ thu hồi của các chất phân tích dao động trong khoảng từ 90,0% đến 106,9% tùy theo nồng độ và hệ số biến thiên RSD dao động trong khoảng từ 0,91% đến 4,9%.
Phương pháp đã được ứng dụng phân tích 24 mẫu chế phẩm đông dược đang được lưu hành trên thị trường.Nhóm tác giả đã phát hiện 6/24 mẫu (chiếm 25%) có trộn PDE-5 và tất cả đều thuộc nhóm thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
Yhocvn.net/Theo Tạp chí thử nghiệm ngày nay
Chưa có bình luận.