Đại cương
1.Định nghĩa: Liệt nửa người là hiện tượng giảm hoặc mất vận động chủ động của một nửa bên cơ thể gồm: chân tay cùng bên và có thể kèm theo liệt nửa mặt cùng bên do một tổn thương trung ương xâm phạm vào bó tháp.
2.Giải phẫu đường đi của bó tháp:
Chẩn đoán xác định liệt nửa người
1. Liệt nửa người điển hình
1.1. Liệt mềm nửa người
– Liệt mềm nửa người thường chỉ xuất hiện tạm thời, ngay sau khi tổn thương.
– Có thể liệt hoàn toàn hoặc không hoàn toàn, xuất hiện ở các cơ duỗi ở chi trên và các cơ gấp ở chi dưới. Các cơ càng có chức năng vận động chủ động nhiều thì càng thể hiện rõ (ví dụ các cơ phụ trách động tác tinh vi của các ngón tay).
– Trương lực cơ giảm: Cơ nhẽo, độ gấp duỗi các khớp tăng, độ ve vẩy tăng.
– Mất hoặc giảm phản xạ gân xương bên liệt. Tuy nhiên trong giai đoạn này có thể đã có dấu hiệu Babinski .
1.2.Liệt cứng nửa người
Trong đa số các trường hợp liệt cứng là giai đoạn tiếp theo sau của liệt mềm .
Khám lâm sàng sẽ thấy liệt vận động nửa người và kèm theo các dấu hiệu:
– Tăng phản xạ gân xương: Phản xạ đáp ứng mạnh, lan tỏa, đa động. Có thể thấy dấu hiệu rung giật bàn chân hoặc rung giật xương bánh chè.
– Co cứng tháp: Biểu hiện co cứng cơ có tính chất đàn hồi ở bên liệt, ưu thế ở một số nhóm cơ tạo nên tư thế gấp ở chi trên và duỗi ở chi dưới.
– Dấu hiệu Babinski hoặc các dấu hiệu tương đương .
2. Liệt nửa người kín đáo
– Quan sát dáng đi: Giảm các động tác tự động của tay bên liệt khi đi, chân hơi duỗi do tăng trương lực nhóm cơ tứ đầu đùi và cơ gấp các ngón (chân đi kiểu phát cỏ).
– Thăm khám kỹ có thể phát hiện các thiếu sót về vận động ở ngọn chi.
– Trường hợp triệu chứng rất kín đáo cần tiến hành một số nghiệm pháp nhằm làm rõ các thiếu sót vận động:
+ Nghiệm pháp Barré
+ Nghiệm pháp Mingazini
+ Nghiệm pháp gấp phối hợp đùi – mình của Babinski
– Mất đối xứng của phản xạ gân xương hai bên; giảm hoặc mất phản xạ da bụng và da bìu bên liệt.
– Có thể thấy dấu hiệu Hoffmann, Babinski và các dấu hiệu tương đương ở bên liệt.
– Phát hiện liệt mặt kiểu trung ương ở nửa người bên liệt.
3. Liệt nửa người ở bệnh nhân hôn mê
Phát hiện được liệt nửa người trong trường hợp bệnh nhân hôn mê có ý nghĩa rất quan trọng, nó cho phép khẳng định có một tổn thương tại não gây hôn mê. Tuy nhiên thường khó, đòi hỏi phải khám xét cẩn thận và cần đánh giá một cách thận trọng.
– Phát hiện giảm vận động của một bên cơ thể (quan sát các vận động tự phát hoặc các đáp ứng vận động của bệnh nhân sau khi kích thích đau).
– Phát hiện hiện tợng giảm trương lực cơ ở bên liệt với biểu hiện bàn chân bên liệt đổ ra ngoài, đa tay bệnh nhân lên cao rồi buông thì tay bên liệt sẽ rơi xuống một cách nặng nề (dấu hiệu Raimistes).
– Mất đối xứng phản xạ gân xương hai bên; mất phản da bụng và da bìu bên liệt, có dấu hiệu Babinski hoặc các dấu hiệu tương đương ở bên liệt .
– Phát hiện dấu hiệu liệt mặt trung ương ở bên nghi liệt nửa người. Liệt mặt có thể quan sát thấy một cách tự nhiên: Nhân trung lệch về bên lành, rãnh mũi – má ở bên liệt mờ, má bên liệt phập phồng theo nhịp thở, miệng lệch kiểu ngậm tẩu. Các dấu hiệu lệch mặt thể hiện rõ khi làm nghiệm pháp Pièrre-Marie-Foix .
Chẩn đoán định khu liệt nửa người
1. Liệt nửa người do tổn thương vỏ não
Liệt nửa người bên đối diện không đồng đều, xâm phạm không cân xứng ba bộ phận (mặt, tay và chân). Tổn thương mặt ngoài của hồi trán lên sẽ gây liệt u thế ở tay và mặt. Tổn thương mặt trong và phía trên của vùng vận động sẽ gây liệt u thế ở chân.
Thiếu sót vận động thường kèm theo các triệu chứng khác của tổn thương vỏ não như rối loạn cảm giác ở nửa người bên liệt, thất ngôn trong trường hợp có tổn thương bán cầu ưu thế, động kinh, rối loạn tâm thần, mất nhận thức bệnh tật trong trường hợp tổn thương bán cầu không ưu thế, bán manh…
Tóm lại liệt nửa người do tổn thơng vỏ não có 3 đặc điểm nổi bật: Liệt không đồng đều, không toàn bộ và không thuần túy.
2. Liệt nửa người do tổn thương bao trong
Liệt nửa người bên đối diện mang tính chất toàn bộ và đồng đều, thể hiện liệt cân đối ở 3 bộ phận (mặt, tay và chân). Bao trong là vị trí toàn bộ các sợi của bó tháp đi qua một diện rất hẹp, một tổn thương nhỏ ở vùng này đủ để gây nên một bệnh cảnh liệt rất nặng nề trên lâm sàng.
Liệt vận động thuần túy. Một số trường hợp có rối loạn cảm giác do tổn thương lan rộng vào đồi thị .
Tóm lại liệt nửa ngời do tổn thương bao trong có 3 đặc điểm nổi bật: Liệt toàn bộ, liệt đồng đều và liệt thuần túy vận động .
3. Liệt nửa người do tổn thương thân não
Liệt nửa người bên đối diện kèm theo liệt mặt nếu tổn thương từ cầu não trở lên, nếu tổn thương dới mức cầu não thì không kèm liệt mặt .
Tương ứng với mỗi khu vực của thân não, liệt nửa người bên đối diện với tổn thương sẽ kèm theo liệt một số dây thần kinh sọ cùng bên với tổn thương (hội chứng giao bên). Các hội chứng giao bên này sẽ cho phép xác định vị trí tổn thương ở thân não
Vị trí tổn
thương |
Hội chứng | Triệu chứng bên
tổn thương |
Triệu chứng bên đối diện |
Cuống não | Weber | Liệt dây III | Liệt nửa người |
Cầu não | Foville cầu não | Liệt liếc ngang | Liệt nửa người |
Millard- Gubler | Liệt mặt ngoại biên | Liệt nửa người | |
Hành não | Babinski – Nageotte | Hội chứng tiểu não,Claude-Bernard-Horner Liệt màn hầu, lưỡi . | Liệt nửa người không kèm liệt mặt rối loạn cảm giác nửa người |
4. Liệt nửa người do tổn thương tủy sống
Tổn thương nửa tủy cổ cao (từ C1 – C4) có thể gây liệt nửa người với các đặc điểm sau:
– Liệt nửa người cùng bên với tổn thương, không kèm theo liệt mặt.
– Có hội chứng Brown – Séquard: Hội chứng tháp, mất cảm giác sâu ở bên tổn thương, mất cảm giác nông ở bên đối diện và có thể kèm rối loạn cơ tròn.
Chẩn đoán phân biệt
1. Các trường hợp liệt chức năng (rối loạn phân ly)
Thường xảy ra trong những hoàn cảnh đặc biệt như sang chấn tâm lý. Các triệu chứng lâm sàng thay đổi theo tác động của bên ngoài và chịu tác dụng của ám thị.
Không có sự phù hợp giữa các lần khám liên tiếp .
Thiếu các dấu hiệu khách quan: Phản xạ gân xương bình thường, phản xạ da bụng và da bìu bình thường, không có dấu hiệu Babinski hoặc các dấu hiệu tương đương.
Tuy nhiên chỉ định chụp cắt lớp vi tính sọ não là cần thiết để không bỏ sót một trường hợp tổn thương thực thể phối hợp với một bệnh lý tâm thần .
2. Giảm động tác trong hội chứng ngoại tháp nửa người (hội chứng Parkinson)
Rất nhiều trường hợp hội chứng Parkinson bắt đầu từ một bên, nhất là những thể mà triệu chứng tăng trương lực là chủ yếu có thể nhầm với liệt nửa người .
Khám kỹ về lâm sàng sẽ phát hiện các dấu hiệu của tăng trương lực ngoại tháp biểu hiện co cứng kiểu ống chì, dấu hiệu bánh xe răng ca. Triệu chứng co cứng tháp có đặc điểm khác hẳn: Co cứng các cơ gấp ở chi trên và các cơ duỗi ở chi dưới, co cứng có tính chất đàn hồi .
Tìm dấu hiệu run kiểu Parkinson: Run ở ngọn chi, đều khoảng 3 chu kỳ/ giây, biên độ nhỏ, run ở tư thế nghỉ. Có một số nghiệm pháp làm cho bệnh nhân tập trung chú ý một bên, bên không được chú ý sẽ xuất hiện run rõ hơn .
Cần hết sức chú ý những trường hợp liệt nửa người do một tổn thương sâu (u não) có xâm phạm vào các nhân xám. Trong trường hợp này giai đoạn đầu thường có biểu hiện run kèm theo triệu chứng thiếu sót vận động nửa người .
3. Hiện tượng mất chú ý nửa thân:
Gặp trong hội chứng tổn thương thùy đỉnh của bán cầu không u thế. Hiện tượng này thường phối hợp với các triệu chứng khác của tổn thương bán cầu không ưu thế như phủ nhận bên bị bệnh, mất nhận thức nửa thân.
Các nguyên nhân liệt nửa người
1.Chấn thương sọ não:
Tụ máu ngoài màng cứng
Tụ máu dới màng cứng
Đụng giập não
2. Tai biến mạch máu não
Chảy máu não
Nhồi máu não
Co thắt mạch não sau CMDN
3. U não:
4. Nhiễm trùng thần kinh
áp xe não
Viêm tắc tĩnh mạch não
Viêm não
5. Thoái hoá thần kinh và bệnh lý mất myelin:
Bệnh xơ cứng cột bên teo cơ
Xơ cứng rải rác.
Ths. Trần Viết Lực – BV Bạch Mai
Chưa có bình luận.