Đột quỵ và các triệu chứng giống như đột quỵ có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Dưới đây là những dấu hiệu cảnh báo xác định đột quỵ.
Người mẫu người Mỹ Hailey Bieber đã gây chú ý vào cuối tuần sau khi được đưa đến bệnh viện Palm Springs vì các triệu chứng “giống như đột quỵ”, sau đó đã được chẩn đoán xác định có liên quan đến một cục máu đông nhỏ trong não của cô.
Thực tế là khi một người rất trẻ gặp phải các triệu chứng giống như đột quỵ gây sốc cho nhiều người, đặc biệt do là vì đột quỵ thường liên quan đến những người lớn tuổi. Nhưng thực tế là 15% số ca đột quỵ gặp ở những người trong độ tuổi từ 18 đến 55 và những trường hợp đó có xu hướng tăng lên: Một nghiên cứu năm 2019 được công bố trên tạp chí Neurology cho thấy tỷ lệ đột quỵ ở người trẻ tuổi tăng 23% trong giai đoạn 1998 và 2010.
Khi chia sẻ những chi tiết xung quanh nỗi sợ hãi về sức khỏe của mình trên Instagram, Bieber, 25 tuổi không thể nói rõ chính xác những triệu chứng mà cô ấy đã trải qua trước khi nhập viện khẩn cấp.
“Vào sáng thứ Năm, tôi đang ngồi ăn sáng với chồng thì tôi bắt đầu có các triệu chứng giống như đột quỵ và được đưa đến bệnh viện”, Bieber nói trong một cuộc phỏng vấn. “Họ phát hiện ra rằng tôi đã bị một cục máu đông rất nhỏ đến não, gây ra sự thiếu oxy, nhưng cơ thể tôi đã tự vượt qua và tôi hồi phục hoàn toàn trong vòng vài giờ”.
Hiện vẫn chưa rõ điều gì có thể gây ra các triệu chứng giống như đột quỵ của Bieber. Cho dù nguyên nhân có thể là gì, điều quan trọng là nhận ra các dấu hiệu của loại bệnh này, bất kể bạn đang ở độ tuổi nào.
Đột quỵ là gì?
Gregory Albers, MD, giáo sư thần kinh học và khoa học thần kinh tại Trung tâm Y tế Đại học Stanford, cho biết: Đột quỵ là một chấn thương não xảy ra khi có sự gián đoạn đột ngột lưu lượng máu đến não. Não rất nhạy cảm với việc nhận đủ oxy và glucose qua máu, điều này giống như một cơn đau tim, nhưng nó xảy ra trong não.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), có hai loại đột quỵ chính: đột quỵ do thiếu máu cục bộ và đột quỵ xuất huyết.
Đột quỵ do thiếu máu cục bộ là loại đột quỵ phổ biến nhất và chiếm khoảng 87% tổng số đột quỵ. Loại đột quỵ này xảy ra khi cục máu đông chặn dòng chảy của máu và oxy lên não. Sự tắc nghẽn đôi khi xảy ra khi một động mạch trở nên quá hẹp để có đủ máu đi qua nó, được gọi là chứng hẹp lòng mạch. Hẹp có thể do sự tích tụ của các cục máu đông và mảng bám, một hỗn hợp các chất béo và cholesterol, trên thành trong của động mạch. Các nguyên nhân của đột quỵ này bao gồm hút thuốc, huyết áp cao, béo phì, lượng cholesterol trong máu cao, tiểu đường và uống quá nhiều rượu.
Đột quỵ do xuất huyết ít phổ biến hơn và chiếm 13% các trường hợp đột quỵ còn lại. Có hai loại đột quỵ do xuất huyết – xuất huyết trong não (phổ biến nhất, xảy ra khi động mạch não bị vỡ) và xuất huyết dưới nhện (loại ít phổ biến hơn, xảy ra khi chứng phình động mạch gây chảy máu xung quanh bề mặt não). Máu bị rò rỉ có thể gây áp lực quá lớn lên các tế bào não, từ đó có thể làm tổn thương các tế bào. Nguyên nhân chính của loại đột quỵ này là do huyết áp cao, thừa cân, uống quá nhiều rượu, hút thuốc, căng thẳng và lười vận động.
Ngoài ra còn có cái gọi là cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua, đôi khi được gọi là đột quỵ nhỏ hoặc TIA, xảy ra khi nguồn cung cấp máu lên não tạm thời bị gián đoạn. Mặc dù các triệu chứng của những cơn đột quỵ thoáng qua này giống như những cơn đột quỵ cấp tính, nhưng Viện Quốc gia về Rối loạn Thần kinh và Đột quỵ (NINDS) cho biết tất cả các dấu hiệu cần được chuyên gia y tế xem xét và đánh giá một cách nghiêm túc. Một cơn đột quỵ nhỏ có thể là một dấu hiệu cảnh báo một cơn đột quỵ nghiêm trọng hơn trong tương lai.
Các yếu tố nguy cơ mãn tính, bao gồm tiểu đường, huyết áp cao, hút thuốc, béo phì và chế độ ăn uống không lành mạnh là một số khía cạnh có thể gây ra các loại đột quỵ này.
Làm thế nào để xác định chẩn đoán đột quỵ
Theo một cuộc khảo sát năm 2020 do AHA thực hiện, mặc dù tỷ lệ đột quỵ đang gia tăng ở những người trẻ tuổi, khoảng 30% người lớn dưới 45 tuổi nhưng không thực sự biết các dấu hiệu cảnh báo của đột quỵ biểu hiện như thế nào.
Có thể xác định sớm một cơn đột quỵ hoặc các triệu chứng giống như đột quỵ là rất quan trọng để có kết quả điều trị tốt hơn. Theo CDC, việc nhận biết và điều trị nhanh chóng có thể làm giảm bất kỳ tổn thương não nào gây ra do đột quỵ. Đó là lý do tại sao các chuyên gia khuyến cáo mọi người hãy nhớ câu: BEFAST để ghi nhớ và dễ dàng phát hiện ra các dấu hiệu của đột quỵ. Trước đây, lời khuyên là chỉ cần nhớ FAST, nhưng theo nghiên cứu được công bố bởi AHA 2017, việc thêm hai dấu hiệu bổ sung đó vào ghi nhớ có thể giúp mọi người xác định các dấu hiệu sớm hơn của đột quỵ.
B (Balance): Cân bằng / yếu chân. (Người đó có gặp khó khăn khi đứng lên không?)
E (Eye): Mắt / tầm nhìn. (Người đó có khó nhìn không?)
F (Face): Khuôn mặt. (Người đó có bị xệ mặt hay bị tê một bên mặt không?)
A (Arm): Cánh tay. (Một cánh tay / bên của cơ thể có bị yếu hoặc tê không?)
S (Speech): Nói chuyện. (Người đó có khó nói không?)
T (Time): Thời gian. (Nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào trong số những triệu chứng này, hãy gọi ngay cấp cứu 115).
Những dấu hiệu này không nhất thiết là một danh sách bao gồm tất cả các triệu chứng đột quỵ. Ví dụ như đau đầu dữ dội, là một triệu chứng giống đột quỵ khác không có trong các chú ý. Các dấu hiệu và triệu chứng của đột quỵ cũng có thể khác nhau tùy thuộc vào phần nào của não liên quan và phần nào của não đã bị tắc nghẽn lưu thông máu. Ví dụ, nếu phần sau của não bị ảnh hưởng, bạn có thể gặp các vấn đề về thị giác. Nếu một cơn đột quỵ tác động đến các trung tâm cân bằng của thân não, các triệu chứng có thể là quay cuồng, chóng mặt và mất thăng bằng.
Ở bán cầu não trái, đó là nơi các khu vực ngôn ngữ sinh sống và kiểm soát phần bên phải của cơ thể. Nếu đột nhiên gặp khó khăn với giọng nói và yếu hoặc tê ở bên phải của cơ thể, là điển hình cho một cơn đột quỵ liên quan đến bán cầu não trái. Các triệu chứng rất thay đổi tùy thuộc vào phần nào của não bị ảnh hưởng.
Những ai có nguy cơ đột quỵ cao nhất?
Viện Y tế Quốc gia (NIH) cho biết có khoảng 795.000 người ở Hoa Kỳ bị đột quỵ mỗi năm và trong số những trường hợp này, 137.000 người đã tử vong. Mặc dù mọi người ở mọi lứa tuổi và mõi chủng tộc đều có thể bị đột quỵ, nhưng những người thuộc một số nhóm hoặc nhân khẩu học nhất định có nguy cơ cao hơn, bao gồm:
Người Mỹ gốc Phi có nguy cơ bị đột quỵ cao gần gấp hai lần so với người da trắng
Càng lớn tuổi càng có nhiều nguy cơ bị đột quỵ. Ba phần tư số ca đột quỵ xảy ra ở những người từ 65 tuổi trở lên.
Đàn ông có nhiều khả năng bị đột quỵ hơn phụ nữ.
Ngoài ra, Hiệp hội Đột quỵ Hoa Kỳ cho biết nguy cơ đột quỵ của một người tăng gần gấp đôi sau mỗi 10 năm sau 55 tuổi.
Nhưng một lần nữa, trong khi nguy cơ đột quỵ tăng lên khi chúng ta già đi, trường hợp của Bieber làm rõ ràng rằng các triệu chứng giống như đột quỵ có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai, ở mọi lứa tuổi. Cũng có thể có một số mối liên hệ giữa đột quỵ và các triệu chứng giống như đột quỵ và COVID-19.
COVID có thể làm tăng tình trạng viêm trong cơ thể và tăng khả năng hình thành cục máu đông của cơ thể. Ở một số bệnh nhân đã thấy các biến chứng toàn thân nghiêm trọng như suy thận, các vấn đề về gan, các vấn đề về tim, các vấn đề về não có liên quan đến sự đông máu dường như đi cùng với tình trạng nhiễm trùng.
Những người có nguy cơ đột quỵ cao nhất cũng thường có những vấn đề về sức khỏe như lượng cholesterol trong máu cao, tiểu đường, béo phì và hút thuốc trong nhiều năm. Những điều này dẫn đến sự hình thành các mảng bám, mảng xơ vữa động mạch mà mọi người gọi là xơ cứng động mạch xảy ra trong nhiều thập kỷ. Điều đó có ý nghĩa giải thích lý do tại sao đột quỵ sẽ xảy ra ở người lớn tuổi phổ biến nhất so với một số yếu tố nguy cơ khác cũng gây đột quỵ.
Một số mẹo ngăn ngừa đột quỵ
Một trong những cách chủ động nhất chúng ta có thể làm để duy trì sức khỏe tốt và có khả năng giúp bản thân tránh đột quỵ là ăn uống lành mạnh. Điều này bao gồm việc tập trung vào thực phẩm ít natri và tránh thực phẩm chế biến sẵn. Chúng ta cũng nên ăn nhiều trái cây, rau và protein nguồn gốc thực vật. Các bước bổ sung cần thực hiện bao gồm duy trì cân nặng hợp lý, tham gia hoạt động thể chất và chú ý tới tiền sử đột quỵ của gia đình.
Biết được các con số về huyết áp, lượng đường trong máu và cholesterol trong máu có thể giúp chúng ta lập kế hoạch kiểm soát bất kỳ yếu tố nào trong số đó nếu chúng tăng cao hoặc vượt quá mức bình thường.
CDC cũng có một phương pháp ghi nhớ để giúp mọi người biết cách ngăn ngừa đột quỵ và đó là để tìm hiểu nguyên tắc ABCS về phòng ngừa đột quỵ:
A: Aspirin, thuốc này có thể giúp giảm nguy cơ đột quỵ, nhưng không nên dùng trong trường hợp đột quỵ đang hoạt động.
B: (Blood pressure) Huyết áp. Kiểm soát và theo dõi huyết áp.
C: Cholesterol. Kiểm soát và theo dõi lượng cholesterol của bạn.
S: (Smoke) Hút thuốc. Bỏ thuốc càng sớm càng tốt, hoặc đừng bao giờ bắt đầu.
Trong khi đó, việc điều trị đột quỵ phụ thuộc phần lớn vào những tác động đến sức khỏe mà bạn đang gặp phải. Nếu có cục máu đông gây đột quỵ (đột quỵ do thiếu máu cục bộ), các bác sĩ thường sẽ sử dụng thuốc làm tan cục máu đông, một cách hiệu quả để loại bỏ cục máu đông và khôi phục lưu lượng máu lên não để cứu các mô não. Nếu có vấn đề chảy máu trong não (đột quỵ xuất huyết), điều trị thường bao gồm chụp CT sọ não chẩn đoán sớm nhất và có thể phẫu thuật để có thể loại bỏ máu và giảm áp lực lên não. Yhocvn.net (Theo Health)
Chưa có bình luận.