Chủ Nhật, 06/09/2015 | 14:54

Một số bệnh nhân trong quá trình điều trị bệnh viêm gan virus C xuất hiện các phản ứng không mong muốn, việc thông báo và hướng dẫn xử trí giúp cho quá trình điều trị được dễ dàng hơn.

HỘI CHỨNG GIỐNG CÚM

Nhóm triệu chứng thường gặp nhất là nhức đầu, sốt lạnh, run, đau cơ/khớp và tình trạng khó chịu có khuynh hướng trở nên nặng nhất trong vòng 48 giời sau khi tiêm, nhất là khi tiêm lần đầu.

Giúp bệnh nhân xử lý các triệu chứng giống cúm:

Uống nhiều nước có thể giúp bệnh nhân giảm các triệu chứng giống cúm.

Cân nhắc acetaminophen/paracetamol hoặc ibuprofen để hạ nhiệt và giảm đau rõ nhất là điều chỉnh thời gian xuất hiện các triệu chứng này. Nhắc nhở bệnh nhân dùng quá liều các thuốc này vì chúng có thể làm tổn thương gan.

Khẳng định với bệnh nhân rằng độ nặng của các triệu chứng giống cúm thường gắn với mỗi lần tiêm.

NHỮNG VẤN ĐỀ DỄ XÚC ĐỘNG LO ÂU, CHOÁNG VÁNG, TRẦM CẢM

Bệnh nhân bị viêm gan virus C mạn có thể có các triệu chứng hoảng hốt, lo lắng, thay đổi xúc cảm hoặc trầm cảm do tình trạng bệnh hoặc do điều trị. Trầm cảm dễ xảy ra trong 24 tuần đầu của điều trị hơn là sau đó.

Hỏi bệnh nhân để cảnh giác các dáu hiệu sau về các vấn đề dễ xúc cảm:

– Giảm sinh lực, mệt mỏi, thiếu hứng thú trong các hoạt động hoặc các mối giao tiếp thông thường.

– Thái độ lãnh đạm/ dễ cáu gắt và thay đổi giấc ngủ

– Giảm cân đáng kể hoặc mất cảm giác ngon miệng

– Khóc òa không có lý do rõ ràng

– Ý định hoặc trò chuyện về ý muốn tự sát

– Cảm giác bơ vơ, tuyệt vọng, mọi thứ sẽ không khá hơn

Xử lý các vấn đề dễ xúc cảm:

Yêu cầu bệnh nhân của bạn thông tin cho bạn nếu họ bị bất cứ triệu chứng nào được nêu trên và nhấn mạnh rằng điều này rất quan trọng nhờ đó bạn có thể xử lý chúng thích hợp trong khi điều trị.

Cân nhắc việc điều trị các thuốc chống trầm cảm hoặc chuyển đến chuyên gia tâm thần các dấu hiệu trầm cảm xấu hơn.

NHỮNG THAY ĐỔI VỀ MÁU

Cần theo dõi công thức máu đầy đủ vì điều trị có thể làm giảm haemoglobin, bạch cầu đa nhân trung tính và tiểu cầu như được trình bày dưới đây.

Chú ý các dấu hiệu mệt mỏi hoặc khó thở.

– Điều trị ribavirin có thể gây thiếu máu huyết tán trong vài tuần đầu của điều trị. Nồng độ haemoglobin có thể giảm đi 2-3g/dL. Nếu giảm nhiều hơn số này (giảm còn ít hơn 10g/dL), có thể cần phải giảm liều ribavirin như đã được khuyến nghị trong tài liệu thông tin sản phẩm. Tuy nhiên, liều thấp hơn 600mg sẽ không có hiệu quả và cần chuyển sang đơn …liệu, tốt nhất bằng pegylated interferon. Đối với những người không có tiền sử bệnh tim khi mức heamoglobin nhỏ hơn 8,5g/dL cần phải ngừng ribavirin.

– Interferon làm giảm số lượng bạch cầu đa nhân trung tính trong vài tuần đầu của điều trị. Nếu giảm bạch cẩu đa nhân trung tính tiến triển, giảm liều interferon. Nếu số lượng bạch cầu đa nhân trung tính tăng lại, có thể khôi phục lại liều interferon đầy đủ.

– Interferon cũng làm giảm số lượng tiểu cầu trong vòng vài tuần đầu của điều trị. Nếu giảm tiểu cầu tiến triển, giảm liều interferon như đã được ghi rõ trong tài liệu thông tin sản phẩm. Nếu số lượng tiểu cầu tăng lại, có thể khôi phục lại liều interferon đầy đủ.

MỆT MỎI VÀ RỐI LOẠN GIẤC NGỦ (MẤT NGỦ)

Mệt mỏi (cũng là triệu chứng của viêm gan virus C mạn) là vấn đề thường gặp và có thể trở nên xấu hơn do mất ngủ.

Xử lý những vấn đề ngủ và mệt mỏi:

– Nhắc nhở bệnh nhân về cách xây dựng “nội quy giấc ngủ” đơn giản để có thể cải thiện mất ngủ. Những chi tiết này bao gồm:

– Bảo đảm phòng ngủ tối

– Bảo đảm phòng ngủ không quá nóng, cũng không lạnh quá

– Chọn thời gian ngủ và thức dậy đúng giờ giấc

– Không đọc sách/ xem tivi trên giường trước khi cố gắng dỗ giấc ngủ.

– Không tập thể dục ngay trước khi ngủ

– Nên có những khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn trong ngày (đừng ngủ trưa) để đảm bảo rằng bệnh nhân không tự làm cho mình quá mệt.

– Cân nhắc việc sử dụng thuốc ngủ nếu mất ngủ trở nên quan trọng.

NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TUYẾN GIÁP

Những vấn đề về tuyến giáp hoặc những bệnh tuyến giáp hiện có trở nên xấu hơn, có thể là do interferon (gồm cả interferon thông thường lẫn pegylated), nhất là khi có tiền sử gia đình về bệnh tuyến giáp. Đề nghị làm những xét nghiệm tuyến giáp thường quy mỗi ba tháng trong thời gian điều trị. Bệnh nhân cần được đảm bảo rằng tuyến giáp của họ đang được theo dõi. Có thể bị nhược giáp hoặc cường giáp nhưng cả hai tình trạng này đều có thể kiểm soát bằng điều trị.

Khó tập trung, bồn chồn, lừ đừ hoặc những thay đổi rõ về cân nặng có thể là những triệu chứng của rối loạn tuyến giáp.

BUỒN NÔN, MẤT CẢM GIÁC NGON MIỆNG

Viêm gan virus C mạn có thể ảnh hưởng đến sự ngon miệng vì thế cần chỉ cho bệnh nhân biết tầm quan trọng của một chế độ ăn cân đối; nên cố gắng ăn đầy đủ để tránh bị sụt cân nhiều.

Điều trị có thể có những tác dụng phụ thoáng qua, như buồn nôn, tiêu chảy hoặc mất cảm giác ăn ngon.

Xử trí buồn nôn và mất cảm giác ăn ngon (bệnh nhân có thể tìm thấy những gợi ý hoặc những mẹo vặt có ích sau đây):

– Nên ăn trước khi uống thuốc

– Nên tránh những thức ăn có mùi vị khiến buồn nôn

– Nên ăn nhiều bữa nhỏ trong ngày, hơn là ăn ít bữa chính

– Chế độ ăn tốt nhất cân bằng và cung cấp phối hợp đúng tinh bột, chất béo và chất đạm. Một chế độ ăn cân bằng từ các nhóm thức ăn chính là tốt nhất.

– Trà bạc hà hoặc gừng kết tinh (kẹo) cũng có thể có ích chống lại buồn nôn.

– Nếu buồn nôn vẫn còn, có thể dùng thuốc chống nôn. Tuy nhiên, không chắc rằng điều này là cần thiết.

– Yêu cầu bệnh nhân nói với bạn trước khi họ thực hiện bất cứ thay đổi đáng kể nào về chế độ ăn của họ và trước khi sử dụng các chất dinh dưỡng bổ sung

DA KHÔ/ NGỨA

Bệnh nhân có thể có những vấn đề về da như ngứa, da khô hoặc viêm da (đỏ da). Những gợi ý sau có thể giúp xử lý những vấn đề này:

Các thuốc nước hoặc thuốc mỡ không cần toa của bác sĩ có thể có ích (nhắc bệnh nhân chọn các thuốc nước/ thuốc mỡ không có mùi nếu họ bị buồn nôn)

Thử sử dụng xà phòng có nồng độ chất béo cao để giảm khô da

Các thốc mỡ có chứa thốc tê tại chỗ có thể làm giảm ngứa.

Những vấn để da nặng nề hơn có thể đáp ứng với thuốc mỡ hydrocortisone 1%

Nếu vấn đề da xảy ra ở nơi tiêm chích, kiểm tra xem bệnh nhân được tiêm chích đủ không và khuyên bệnh nhân thay đổi nơi chích cho mỗi lần tiêm.

RỤNG TÓC

Bệnh nhân bị rụng tóc ít hoặc tóc thưa thớt sau khoảng ba tháng điều trị. Bảo đảm với bệnh nhân rằng điều này không giống với mất tóc trong điều trị ung thư và rằng nói chung tóc sẽ mọc lại sau khi ngừng điều trị.

Xử lý rụng tóc:

– Sử dụng dầu gội nhẹ

– Tránh chải mạnh quá và làm nóng quá khi sấy khô tóc

– Tốt nhất tránh nhộm và uốn trong khi điều trị vì tóc yếu và dễ gãy với những kiểu xử lý giống như vậy.

Khuyên bệnh nhân của bạn thông tin cho bạn bất cứ triệu chứng nào khác mà họ đã được thông báo.

Để có danh sách đầy đủ về tất cả các tác dụng phụ, chống chỉ định và hướng dẫn giảm liều hãy tham khảo tài liệu thông tin sản phẩm.

Yhocvn.net

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook