Bệnh kiết lỵ là bệnh đường ruột liên quan mật thiết đến vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm. Bệnh kiết lỵ có thể là bệnh kiết lỵ trực trùng và , cả 2 loại lỵ này đều có thể lây lan thành dịch nhưng đặc biệt là lỵ trực trùng nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể có nguy cơ tử vong.
Đặc điểm của kiết lỵ
Nói đến bệnh kiết lỵ là nói đến lỵ vi khuẩn mà thường gọi là lỵ trực trùng (còn gọi là lỵ trực khuẩn) và lỵ do ký sinh trùng gây ra là lỵ amíp (do ký sinh trùng amíp). Bệnh kiết lỵ trực trùng là bệnh do vi khuẩn lỵ (Shigella) gây ra khác với bệnh kiết lỵ do ký sinh trùng amíp.
Bệnh kiết lỵ trực khuẩn lây theo đường ăn uống và rất có khả năng gây thành dịch lớn bởi vì chúng có khả năng tồn tại trong thiên nhiên khá lâu.
Thời gian tồn tại của vi khuẩn lỵ
Vi khuẩn lỵ có thể sống và phát triển trong nước ngọt, rau sống, thức ăn tối thiểu từ 7 – 10 ngày và cũng có thể sống lâu hơn nữa. Ở các quần áo, đồ dùng trong ăn uống của người bệnh kiết lỵ trực khuẩn hoặc trong đất có khi chúng tồn tại tới từ 6 -7 tuần lễ.
Hình thức đào thải
Nguồn đào thải trực khuẩn lỵ là chất thải (phân), thức ăn, nước uống, dụng cụ ăn uống của người đang mắc bệnh kiết lỵ trực khuẩn và người lành mang trực khuẩn lỵ. Đối với những đối tượng là người lành mang vi khuẩn lỵ, khi sức khỏe tốt thì chúng coi như sống cộng sinh nhưng khi sức đề kháng kém chúng trở nên gây bệnh.
Điều quan trọng nhất của người lành mang vi khuẩn lỵ là luôn luôn đào thải mầm bệnh ra môi trường theo phân làm ô nhiễm môi trường, đặc biệt là những vùng mà quản lý phân người chưa thật tốt hoặc không đảm bảo vệ sinh. Từ những đối tượng này lỵ trực khuẩn sẽ theo phân, theo thức ăn, nước uống bị nhiễm trực trùng lỵ đi ra ngoài làm ô nhiễm môi trường xung quanh nhất là ô nhiễm nguồn nước, từ đây trực khuẩn lỵ được lan theo các loại thức phẩm có dùng nước bị ô nhiễm để rửa (rau, thịt, cá…) và lây sang cho người lành bằng con đường ăn, uống. Lỵ trực khuẩn có trong nước ô nhiễm nếu người nào uống nước chưa được đun sôi thì nguy cơ mắc bệnh kiết lỵ do trực khuẩn lỵ là điều rất khó tránh khỏi.
Phân nhóm lỵ trực khuẩn
Người ta chia lỵ trực khuẩn thành 4 nhóm: S. dysentriae, S. Flexnerie, S. Boydii và S. sonnei. Trong 4 nhóm lỵ trực khuẩn này thì nhóm hay gặp nhất ở Việt Nam là lỵ trực khuẩn nhóm S. flexneri.
Qua nhiều nghiên cứu người ta thấy rằng, nhóm lỵ trực khuẩn gây bệnh kiết lỵ nặng nhất là lỵ nhóm 1, trong đó týp S. shiga gây bệnh nặng, nguy kịch hơn cả và rất dễ đưa đến tử vong nếu không phát hiện, điều trị kịp thời. S. shiga gây bệnh nặng và nguy hiểm bởi vì chúng vừa gây bệnh bằng nội độc tố và ngoại độc tố. Đối với các loại vi khuẩn thì loại nào gây bệnh bằng ngoại độc tố cũng có bệnh cảnh lâm sàng rất nặng. Và nếu vi khuẩn vừa gây bệnh bằng nội độc tố và vừa gây bệnh ngoại độc tố, bệnh cảnh lâm sàng càng trầm trọng hơn.
Các triệu chứng của hai loại lỵ này
Mọi người có thể mắc bệnh kiết lỵ trực khuẩn đặc biệt là những người chưa có miễn dịch chống lại trực khuẩn lỵ. Sau khi có một lượng lớn trực khuẩn lỵ vào trong cơ thể khoảng vài ba ngày là bắt đầu xuất hiện các triệu chứng sốt cao, rối loạn tiêu hóa như đau bụng, buồn nôn, nôn, đi lỏng nhiều lần, phân có máu. Giai đoạn đầu phân còn có khuôn nhưng sau một thời gian ngắn phân sẽ lỏng kèm theo có chất nhầy như mũi và có máu. Máu xuất hiện là do độc tố vi khuẩn lỵ làm tổn thương niêm mạc ruột. Máu chảy ra trộn lẫn với phân. Lúc đầu là máu tươi, dần dần phân lỏng ra và máu hòa lẫn với phân, chất tiết dịch của ruột cho nên màu của phân lúc này lờ lờ như máu cá nhất là phân của bệnh nhân bị lỵ trực khuẩn týp S. shiga.
Với thể bệnh do lỵ S.shiga, giai đoạn đầu còn biết số lần đi ngoài trong ngày nhưng vài ba ngày sau thì không thể đếm được số lần đi ngoài do phân cứ tự chảy ra ở hậu môn. Đồng thời thể rạng suy sụp do nhiễm độc độc tố nặng. Song song với nhiễm độc độc tố thì đối với bệnh kiết lỵ trực khuẩn thường là đi ngoài nhiều lần cho nên xảy ra hiện tượng mất nước và chất điện giải có khi rất trầm trọng. Nhiễm độc độc tố nặng và mất nước, chất điện giải dễ đưa đến tử vong đặc biệt là trẻ em và người cao tuổi già yếu nếu không cấp cứu kịp thời.
Với bệnh kiết lỵ amíp thì tác nhân gây bệnh là ký sinh trùng amíp (Entamoeba histolitica), chúng thuộc loại đơn bào, khả năng tồn tại trong môi trường tự nhiên tuy có ngắn ngày hơn so với trực khuẩn lỵ nhưng vai trò gây bệnh của chúng cũng không thể xem thường. Bệnh kiết lỵ amíp chủ yếu là tình trạng nhiễm trùng ở ruột già. Khi bị bệnh thường có 2 loại: cấp tính và mạn tính:
Thể cấp tính: thường gặp là những hội chứng lỵ, bao gồm đau bụng, mót rặn và đi ngoài phân có máu lẫn với chất nhầy như chấttiết ở mũi (nhầy máu mũi). Đi ngoài nhiều lần trong ngày nhưng mỗi lần đi ngoài không có nhiều phân. Đối với một số bệnh nhân thỉnh thoảng có tiêu chảy nhưng không rầm rộ, ồ ạt như bệnh kiết lỵ trực khuẩn. Người bệnh thường xuất hiện đau quặn bụng từng cơn, đau dọc theo khung đại tràng trước khi đi ngoài. Song song với đau bụng là mót rặn. Người bệnh đau bụng rất muốn đi ngoài nhưng khi ngồi vào nhà vệ sinh rất lâu nhưng không đi ngoài được (đi nhanh về chậm). Nếu ở thể nhẹ thì sức khỏe ít bị ảnh hưởng nhưng khi bệnh nặng thì bệnh nhân có thể bị suy kiệt (đi ngoài ra máu nhiều lần trong ngày), rối loạn chất điện giải, bụng trướng.
Thể mãn tính: Khi bị lỵ amíp không được điều trị hoặc điều trị không dứt điểm, không đúng phác đồ thì bệnh sẽ chuyển thành mạn tính và khi đó lỵ amíp sẽ chui vào trong niêm mạc ruột tạo thành các kén amíp, từng đợt chúng lại xuất hiện gây đau bụng, đi ngoài ra máu tươi nhất là khi ăn các loại thức ăn lạ, nhiều mỡ… Hậu quả của lỵ amíp mạn tính là gây nên viêm đại tràng mạn tính làm cho người bệnh rất khó chịu và dễ bị suy kiệt do rối loạn tiêu hóa kéo dài. Mắc bệnh kiết lỵ amíp còn có một nguy cơ lan truyền ngược dòng gây nên hiện tượng ápxe gan.
Phòng bệnh kiết lỵ như thế nào?
Muốn phòng bệnh kiết lỵ (lỵ trực khuẩn và lỵ amíp) có hiệu quả thì cần đảm bảo vệ sinh môi trường, quản lý chất thải và phân của người bệnh đúng quy định như cho vào hố xí, có các chất sát khuẩn mạnh kèm theo như vôi bột, cloramin đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Không được xả phân và giặt quần áo của người bệnh kiết lỵ ra sông, suối, ao, hồ. Không nên ăn rau sống không hợp vệ sinh, không uống nước chưa được đun sôi, không ăn tiết canh, gỏi, nem chạo, nem chua… Cần phải rửa tay sạch bằng xà phòng sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn.
Trong gia đình có người mắc bệnh kiết lỵ nên cách ly các dụng cụ ăn uống và đồ dùng trong sinh hoạt. Các dụng cụ ăn uống cần luộc bằng nước đun sôi. Đối với các cơ sở buôn bán, kinh doanh thực phẩm và các nhà hàng, khách sạn có liên quan đến ăn, uống cần kiểm tra sức khỏe nhân viên phục vụ, đặc biệt là xét nghiệm phân định kỳ nhằm phát hiện người lành mang lỵ amíp hoặc lỵ trực khuẩn.
Đối với người lành mang mầm bệnh cần được điều trị dứt điểm và cần xét nghiệm phân theo định kỳ. Những vùng có nguy cơ mắc lỵ trực khuẩn cần được sử dụng vắc-xin phòng bệnh kiết lỵ trực khuẩn theo chỉ dẫn của cán bộ y tế địa phương.
Chưa có bình luận.