Thứ Năm, 06/06/2019 | 15:57

Chỉ định, chống chỉ định cho ăn qua ống mở thông dạ dày hoặc hỗng tràng (một lần) và những lưu ý

Trong những năm thập kỷ 80 của thế kỷ XX, bệnh nhân nặng thường được nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch. Song phương pháp này có nhiều bất lợi, nhất là khi nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch hoàn toàn. Một trong những bất lợi lớn nhất của nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch hoàn toàn là đường ruột bị bỏ trống tạo điều kiện cho hiện tượng thẩm lậu vi khuẩn (bacterian translocation) xảy ra, gây nhiễm trùng, nhiễm độc máu. Vì vậy, từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu đã khuyến khích việc trở lại phương pháp nuôi dưỡng qua đường ruột sớm cho các bệnh nhân nặng.

Việc lựa chọn đường nuôi dựa vào bốn yếu tố: tình trạng sinh lý của đường tiêu hoá, nguy cơ hít sặc, thời gian phải nuôi qua ống thông, kỹ thuật phù hợp nhất với bệnh nhân (cần phẫu thuật, dùng nội soi, soi ổ bụng). Ống thông mũi – dạ dày thường được dùng với bệnh nhân có tình trạng tương đối ổn định, nuôi ngắn ngày, không có các biến chứng như nôn liên tục, trào ngược. ống thông mũi – ruột non (Nasoenteric) có chỉ định trên bệnh nhân đường tiêu hoá còn hoạt động nhưng không được nuôi qua dạ dày.

Mở thông thực quản có chỉ định nếu không thể đặt qua đường mũi. Cả hai phương pháp trên có tỷ lệ biến chứng và hiệu quả tương tự nhau, nhưng về mặt kỹ thuật mở thông thực quản khó thực hiện hơn và thường được thực hiện trong quá trình phẫu thuật ung thư vùng đầu cổ hoặc phẫu thuật tạo hình vùng đầu cổ. Nuôi qua mở thông dạ dày được thực hiện khi thực quản bị tổn thương trong khi dạ dày bình thường

Đưa thức ăn qua ống mở thông dạ dày hoặc hỗng tràng cho người bệnh không tự nuốt được.

Chỉ định cho ăn qua ống mở thông dạ dày

Chỉ định choăn qua ống mở thông dạ dày hoặc hỗng tràng khi:

+ Bệnh nhân hôn mê: do chấn thương sọ não, tai biến mạch máu não, viêm não, do đường huyết quá tăng trong đái tháo đường, hoặc hôn mê do hạ đường huyết…

+ Bệnh nhân trong giai đoạn sốc bỏng nặng.

+ Bệnh nhân uốn ván.

+ Bệnh nhân tổn thương hàm mặt nặng.

+ Bệnh nhân hẹp thực quản.

+ Bệnh nhân suy mòn nặng…

Chống chỉ định cho ăn qua ống mở thông dạ dày

– Tất cả các trường hợp thành trước dạ dày không áp sát vào thành bụng: cổ trướng mức độ vừa và nặng, gan to đặc biệt là gan trái, lách to, người bệnh đã cắt dạ dày.

– Các bệnh lý thâm nhiễm dạ dày.

– Tắc ruột (trừ trường hợp mở dạ dày ra da để giải áp), bán tắc ruột, hẹp khít môn vị.

– Tiêu chảy sau viêm phúc mạc do thủng tạng rỗng.

– Người bệnh thẩm phân phúc mạc, bệnh lý dạ dày do tăng áp lực tĩnh mạch cửa.

Chuẩn bị con người và phương tiện

© Người thực hiện: Điều dưỡng.

© Phương tiện

– Thức ăn lỏng được pha chế sẵn: sữa ensure, cháo lỏng…

– Quang truyền dịch và ống dẫn dịch.

– Túi hoặc bốc đựng thức ăn.

– Bơm tiêm cho ăn 50ml.

© Người bệnh

Trước khi cho ăn, thông báo cho người bệnh nếu người bệnh tỉnh táo, nếu người bệnh không tỉnh thì thông báo cho người nhà người bệnh.

4. Hồ sơ bệnh án

Các bước tiến hành cho ăn qua ống mở thông dạ dày

© Kiểm tra hồ sơ

© Kiểm tra người bệnh

© Thực hiện kỹ thuật

– Kiểm tra xem ống mở thông dạ dày còn ở đúng vị trí trong dạ dày hay không (bơm khí và nghe vùng thượng vị hoặc dùng bơm hút thử thấy ra dịch vị).

– Nối túi đựng thức ăn lỏng với ống thông, điều chỉnh giọt sao cho phù hợp với lượng calo.

– Thời gian mỗi lần cho ăn cách nhau khoảng 3 – 6 tiếng. Sau mỗi lần cho ăn, bơm nước sôi để nguội hoặc nước vô khuẩn rửa ống thông. Chú ý khi bơm nước và thức ăn vào dạ dày tránh đưa không khí vào dạ dày.

– Bắt đầu nuôi ăn từ 8-24 giờ sau thủ thuật. Số lượng dịch nuôi ăn bắt đầu với 40ml/4giờ, sau đó tăng dần 25ml/ mỗi 12 giờ để đạt 250ml/4 giờ.

– Ống nuôi ăn có thể sử dụng từ 6-12 tháng, nếu có chỉ định tiếp tục nuôi ăn thì thay ống nuôi ăn mới.

– Liều lượng calo cần thiết tùy theo từng bệnh lý:

Tiêu hóa bình thường: 30 – 50 calo/kg

Ngày đầu: 1000 – 1400 calo. Ngày thứ hai: 2000 – 2500 calo.

Nhiễm khuẩn: 50 calo/kg

Cắt đoạn ruột lớn: ngày đầu 250 calo, chủ yếu là glucid, tăng dần mỗi ngày 250 calo.

Theo dõi bệnh nhân

– Tình trạng tiêu hóa: ỉa chảy (hay gặp nhất), nôn.

– Cân nặng, ure máu, ure niệu, protid máu, công thức máu…

Tai biến và xử trí

– Ỉa chảy: giảm bớt chế độ ăn, giảm bớt tốc độ truyền dịch, kiểm tra tình trạng ô nhiễm môi trường, kiểm tra các thao tác của điều dưỡng.

– Nôn: đôi khi xảy ra do ăn quá nhanh, quá nhiều trong một lần do chỉ định không đúng: để người bệnh nằm đầu nghiêng hoặc tư thế an toàn. Hút dịch ở họng và phế quản.

– Sụt cân, tăng cân: điều chỉnh lượng thức ăn.

– Viêm phổi hít: do bơm quá nhiều trong mỗi lần, hoặc do hiện tượng không dung nạp ống nuôi ăn. Xử trí bằng cách giảm lượng dịch bơm nuôi ăn cho mỗi lần bơm, nằm đầu cao khi bơm qua ống cho đến 1 giờ sau bơm thức ăn.

Tóm lại, cho ăn qua ống thông cần được xem xét chỉ định ở bất kỳ bệnh nhân nào mà vẫn còn chức năng của dạ dày, ruột nhưng không đưa đủ nhu cầu dinh dưỡng bằng đường miệng. Nó đưa lại lợi ích cho bệnh nhân: giảm nguy cơ nhiễm trùng so với việc sử dụng đường truyền tĩnh mạch, sử dụng chức năng ruột một cách bình thường, tránh được teo nhung mao, giảm được khả năng mất cân bằng điện giải, an toàn, sinh lý và tiết kiệm kinh tế.

Yhocvn.net (Trích theo ký thuật nội khoa của Bộ Y tế)

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook