Bệnh thấp khớp y học cổ truyền gọi là “chứng tý” hiện nay là một loại bệnh rất hay gặp, biểu hiện chủ yếu của bệnh này là đau nhức sưng tấy hoặc nóng đỏ ở các khớp xương hay cơ gân;
Bệnh thấp khớp y học cổ truyền gọi là “chứng tý” hiện nay là một loại bệnh rất hay gặp, biểu hiện chủ yếu của bệnh này là đau nhức sưng tấy hoặc nóng đỏ ở các khớp xương hay cơ gân; nhiều chỗ hay một chỗ, có thể kèm tê dại nặng nề, bệnh tình thường liên miên dai dẳng, khi khí hậu thay đổi thường phát nặng hơn.
Viêm khớp gối.
Bệnh thấp khớp cấp tính nhiều khi có biến chứng tim, cần kết hợp với y học hiện đại để theo dõi và điều trị.
Khác với bệnh phong, hàn và thấp đơn thuần, đặc điểm của bệnh thấp khớp là đủ cả 3 khí phong, hàn và thấp kết hợp lại thành một bệnh, cho nên người xưa biện chứng nhận xét trong 3 khí, khí nào nhiều hơn, để chia ra 3 loại mà điều trị, như:
– Bệnh di chuyển từ nơi này qua nơi khác, là do phong khí nhiều, nên gọi là phong tý (hành tý).
– Đau nhức kịch liệt và liên tục là do hàn khí nhiều, nên gọi là hàn tý (thống tý).
– Đau cố định một chỗ kèm có nặng nề tê dại là do thấp khí nhiều, nên gọi là thấp tý (trước tý).
Lâu ngày, phong hàn thấp hoá nhiệt kết hợp với âm hư gây nên thể “nhiệt tý” là những đợt cấp diễn của thấp khớp kinh.
Tổng hợp cả 4 thể trên quy nạp lại có 2 loại chính như sau:
Loại cấp tính:
Phát bệnh đột ngột sưng tấy nóng đỏ, đau nhức kịch liệt, hoặc phát sốt, hoặc có khát nước, buồn bực khó chịu, rêu lưỡi nhờn mỏng, mạch phù sác hoặc khẩn.
Phép chữa: Khu phong, tán hàn, trừ thấp, thanh nhiệt.
Bài thuốc: Rễ gối hạc 16g, lá đơn mặt trời 12g, đơn tướng quân 12g, lá bạc thau (sao) 12g, dây kim ngân 10g, ké đầu ngựa 16g, lá thông 8g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần trước bữa ăn.
– Nếu phong nhiều, thêm: Vòi voi 16g, kinh giới 12g. Hàn nhiều, thêm: Tỳ giải 16g, thổ phục linh 16g.
Rễ cà gai leo
Loại mạn tính:
Bệnh phát từ từ hoặc ở cấp tính chuyển qua mạn tính, đau nhức nhẹ, không sưng hoặc có sưng mà da bình thường không tấy đỏ, không nóng, có khi ngoài da có chỗ tê dại, tay chân co duỗi khó khăn hoặc không vận động được, thay đổi thời tiết thì đau hơn, rêu lưỡi hoặc trắng nhờn hoặc vàng, mạch có khi trầm hoãn, có khi nhu hoãn.
Phép chữa: Khu phong, tán hàn, trừ thấp và chú ý đến bồi bổ cơ thể.
Bài thuốc: Nam đằng (sao vàng) 12g, găng bầu 12g, rễ gối hạc 12g, rễ bươm bướm 12g, rễ rung rúc 8g, tơ mành 8g, cử thiên tuế 16g, tầm gửi cây ruối 12g. Ăn kém thêm: ý dĩ 20g; Huyết kém thêm: rễ gấm (vương tôn) 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bài thuốc chữa chung cho cấp tính và mạn tính:
Rễ độc lực (tầm sọng) 240g, rễ và dây lá lốt 120g, rễ cỏ xước 80g, rễ cà gai leo 80g, thiên niên kiện 40g, quế chi 40g, rễ gấc hoặc dây mặt quỷ 80g, rễ rung rúc 80g, rễ bộ nảy. Đổ 2 lít nước, sắc lấy 500ml, cho thêm đường và 1/10 rượu vào. Mỗi lần uống 20ml, ngày 3 lần uống trong 10 ngày.
(Theo yhocvn.net)
Chưa có bình luận.