Thuốc Herceptin, tên quốc tế Trastuzumab, là kháng thể đơn dòng tái tổ hợp DNA có nguồn gốc từ người điều trị bệnh ung thư dạ dày, dạ dày – thực quản có di căn, ung thư vú có HER 2 dương tính.
Thuốc Herceptin, tên quốc tế Trastuzumab, là kháng thể đơn dòng tái tổ hợp DNA có nguồn gốc từ người, tác động chọn lọc lên thành phần ngoại bào của protein thụ thể 2 của yếu tố tăng trưởng biểu bì người (HER2). Đây là liệu pháp trúng đích HER2 trong điều trị ung thư dạ dày, ung thư miệng nối dạ dày thực quản di căn, ung thư vú có HER 2 dương tính.
Bột pha dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch 150 mg: hộp 1 lọ + 1 lọ 20ml nước kìm khuẩn để tiêm có chứa benzyl alcohol,
Bột pha dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch 440 mg: hộp 1 lọ bột + 1 lọ 20ml nước kìm khuẩn để tiêm có chứa benzyl alcohol
Thành phần
Cho 1 lọ liều đơn
Trastuzumab 150 mg
Cho 1 lọ đa liều
Trastuzumab 440 mg
Dược lực
Cơ chế hoạt động
Kháng thể này là một IgG1 có những phân vùng khung từ người và những phân vùng xác định tính bổ sung của kháng thể từ chuột chống p185 HER2 gắn với HER2.
Tiền gen sinh ung HER2 hoặc c-erbB2 mã hóa cho một protein giống thụ thể, xuyên màng tế bào, có trọng lượng phân tử là 185kDa, và có liên quan về mặt cấu trúc với thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì. Sự bộc lộ quá mức của HER2 được ghi nhận trong 25-30% trường hợp ung thư vú nguyên phát và 6,8% – 42,6% ung thư dạ dày tiến triển. Hậu quả của việc khuếch đại gen HER2 là gia tăng bộc lộ protein HER2 trên bề mặt những tế bào khối u này, dẫn đến việc hoạt hóa thụ thể HER2.
Các nghiên cứu đã cho thấy những bệnh nhân có những khối u có sự khuếch đại hay bộc lộ quá mức HER2 có thời gian sống không bệnh ngắn hơn so với những bệnh nhân không có sự khuếch đại hay bộc lộ quá mức của HER2.
Trong những thử nghiệm in-vitro và trên động vật, trastuzumab cho thấy khả năng ức chế sự tăng sinh các tế bào khối u người có bộc lộ quá mức HER2. Nghiên cứu in vitro cho thấy tác dụng gây độc tế bào qua trung gian tế bào phụ thuộc kháng thể (ADCC) của trastuzumab tác động ưu tiên trên những tế bào ung thư có bộc lộ quá mức HER2 so với những tế bào ung thư không có sự bộc lộ quá mức HER2.
Các nghiên cứu lâm sàng/Hiệu quả
Hiệu quả
Ung thư vú
Ung thư vú di căn
Herceptin đơn trị đã được sử dụng trong các thử nghiệm lâm sàng cho những bệnh nhân bị ung thư vú di căn, có khối u có sự bộc lộ quá mức HER2 và đã thất bại với một hay nhiều phác đồ hóa trị khác cho bệnh di căn của họ.
Herceptin cũng đã được sử dụng trong những nghiên cứu lâm sàng kết hợp với paclitaxel hoặc với một anthracycline (doxorubicin hoặc epirubicin) cùng với cyclophosphamide (AC) để điều trị bước một cho những bệnh nhân bị ung thư vú di căn với khối u có sự bộc lộ quá mức HER2.
Những bệnh nhân được điều trị trước đó bằng hóa trị có kết hợp anthracycline được điều trị với paclitaxel (175mg/m2 truyền trong 3 giờ) có hoặc không có Herceptin. Bệnh nhân có thể được điều trị với Herceptin cho đến khi bệnh tiến triển.
Herceptin đơn trị, khi sử dụng để điều trị bước hai hoặc bước ba cho những phụ nữ bị ung thư vú di căn có sự bộc lộ quá mức HER2 cho tỉ lệ đáp ứng khối u toàn bộ là 15% và thời gian sống trung vị là 13 tháng.
Sử dụng Herceptin kết hợp với paclitaxel để điều trị bước một cho những bệnh nhân bị ung thư vú di căn có bộc lộ quá mức HER2 kéo dài đáng kể trung vị thời gian đến khi bệnh tiến triển so với bệnh nhân chỉ điều trị bằng paclitaxel. Sự gia tăng trung vị thời gian đến khi bệnh tiến triển ở những bệnh nhân được điều trị bằng paclitaxel là 3,9 tháng (6,9 tháng so với 3,0 tháng). Đáp ứng của khối u và tỷ lệ sống một năm cũng tăng khi điều trị Herceptin kết hợp với paclitaxel so với paclitaxel đơn trị.
Herceptin cũng được nghiên cứu trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, có đối chứng, phối hợp với docetaxel, để điều trị bước một cho những phụ nữ bị ung thư vú di căn. Phối hợp Herceptin và docetaxel làm tăng đáng kể tỉ lệ đáp ứng (61% so với 34%) và kéo dài trung vị thời gian đến khi bệnh tiến triển (thêm khoảng 5,6 tháng) so với những bệnh nhân chỉ được điều trị với docetaxel. Thời gian sống trung vị cũng tăng đáng kể ở những bệnh nhân được điều trị phối hợp, so với những bệnh nhân chỉ điều trị với docetaxel (31,2 tháng so với 22,7 tháng).
Điều trị phối hợp Herceptin với anastrozole
Herceptin đã được nghiên cứu dùng phối hợp với anastrozole để điều trị bước một cho những bệnh nhân bị ung thư vú di căn có bộc lộ quá mức HER2 và dương tính với thụ thể hormone (ví dụ thụ thể estrogen [ER] và/hoặc thụ thể progesterone [PR]). Thời gian sống không có tiến triển bệnh kéo dài gấp đôi ở nhóm bệnh nhân được điều trị với Herceptin kết hợp anastrozole, so với nhóm chỉ dùng anastrozole (4,8 tháng so với 2,4 tháng). Đối với những thông số khác, tình trạng cải thiện cũng đã được ghi nhận ở nhóm được điều trị phối hợp như: đáp ứng toàn bộ (16,5% so với 6,7%), tỷ lệ đạt hiệu quả trên lâm sàng (42,7% so với 27,9%), thời gian cho đến khi bệnh tiến triển (4,8 tháng so với 2,4 tháng). Không có sự khác biệt nào được ghi nhận giữa hai nhóm về thời gian đáp ứng và khoảng thời gian có đáp ứng. Trung vị thời gian sống toàn bộ đã được kéo dài đến 4,6 tháng ở những bệnh nhân trong nhóm được điều trị phối hợp. Sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê, tuy nhiên, hơn một nửa số bệnh nhân trong nhóm dùng anastrozole đơn trị đã chuyển sang dùng phác đồ điều trị có sử dụng Herceptin sau khi bệnh tiến triển. 52% số bệnh nhân dùng Herceptin kết hợp với anastrozole đã sống được ít nhất 2 năm trong khi tỷ lệ này ở nhóm bệnh nhân chỉ dùng anastrozole là 45%.
Ung thư vú giai đoạn sớm
Trong trường hợp này, Herceptin được nghiên cứu trong thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên (HERA) nhằm so sánh việc điều trị Herceptin mỗi ba tuần trong một năm với nhóm chứng trên bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm có HER2 dương tính sau phẫu thuật, đã dùng hoá trị và xạ trị (nếu có). Bệnh nhân được dùng liều tải khởi đầu là 8mg/kg, sau đó là 6mg/kg mỗi ba tuần trong một năm.
Hiệu quả từ thử nghiệm HERA được tóm tắt như sau: Với kết quả cho tỉ lệ sống không bệnh (DFS) ban đầu, tỉ lệ nguy cơ trở thành lợi ích tuyệt đối, với tỉ lệ sống không bệnh trong vòng hai năm tăng 7,6% (85,8% so với 78,2%) trong nhóm điều trị bằng Herceptin.
Ung thư dạ dày tiến triển
Các kết quả về hiệu quả từ thử nghiệm ToGA được tóm tắt trong bảng 5. Những bệnh nhân được tham gia vào thử nghiệm này là những bệnh nhân chưa được điều trị trước đó với ung thư dạ dày hoặc ung thư miệng nối dạ dày thực quản tiến triển tại chỗ hoặc tái phát và/hoặc di căn có HER2 dương tính, không thể chữa khỏi bệnh. Kết cuộc chính là thời gian sống toàn bộ được định nghĩa là thời gian kể từ ngày phân phối ngẫu nhiên cho tới ngày tử vong vì bất cứ nguyên nhân gì. Ở thời điểm phân tích, tổng số 349 bệnh nhân được phân phối ngẫu nhiên đã chết: 182 bệnh nhân (62,8%) trong nhóm chứng và 167 bệnh nhân (56,8%) trong nhóm điều trị (4). Đa số tử vong đều do các biến cố liên quan tới ung thư tiềm ẩn.
Thời gian sống toàn bộ được cải thiện một cách có ý nghĩa ở nhóm điều trị bằng Herceptin + capecitabine/5-FU và cisplatin so với nhóm điều trị bằng capecitabine/5-FU và cisplatin (p = 0,0046, theo kiểm định Log-Rank). Thời gian sống trung vị là 11,1 tháng ở nhóm capecitabine/5-FU và cisplatin so với 13,8 tháng ở nhóm Herceptin + capecitabine/5-FU và cisplatin. Nguy cơ tử vong giảm 26% (Tỷ số rủi ro [HR] 0,74 95% CI [0,60 – 0,91]) ở nhóm bệnh nhân dùng Herceptin so với nhóm bệnh nhân dùng capecitabine/5-FU (4).
Các phân tích phân nhóm post-hoc đã chỉ ra rằng các khối u đích có mức protein HER2 cao hơn (IHC 2+/FISH+ và IHC 3+/không tính đến trạng thái của FISH) có hiệu quả điều trị tốt hơn. Trung vị thời gian sống toàn bộ trong nhóm có HER2 cao là 11,8 tháng và 16 tháng, HR 0,65 (95% CI 0,51 – 0,83) trung vị thời gian sống bệnh không tiến triển là 5,5 tháng và 7,6 tháng, HR 0,64 (95% CI 0,51 – 0,79) tương ứng với nhóm điều trị bằng capecitabine/5FU + cisplatin và nhóm điều trị bằng Herceptin + capecitabine/5FU và cisplatin.
Tính sinh miễn dịch
Kháng thể chống trastuzumab ở người được phát hiện ở một bệnh nhân trong số 903 bệnh nhân và người này không có các biểu hiện dị ứng.
Dược động học
Dược động học của trastuzumab đã được nghiên cứu trên những bệnh nhân bị ung thư vú có di căn và ung thư vú giai đoạn sớm. Trong các nghiên cứu ở Pha I, truyền tĩnh mạch nhanh 10, 50, 100, 250 và 500mg trastuzumab mỗi tuần một lần trên những bệnh nhân này cho thấy tính chất dược động học phụ thuộc vào liều. Thời gian bán thải trung bình tăng và độ thanh thải giảm khi tăng liều.
Ung thư vú
Dược động học ở trạng thái ổn định trong ung thư vú
Phương pháp dược động học trên dân số sử dụng số liệu từ các nghiên cứu Pha I, Pha II, và nghiên cứu then chốt Pha III, được áp dụng để đánh giá dược động học ở trạng thái ổn định ở những bệnh nhân ung thư vú di căn dùng trastuzumab với liều tải 4mg/kg, sau đó dùng liều duy trì hàng tuần là 2mg/kg. Theo phương pháp này, độ thanh thải điển hình của trastuzumab là 0,225l/ngày và thể tích phân bố thuốc điển hình là 2,95l với thời gian bán thải cuối cùng tương ứng là 28,5 ngày (khoảng tin cậy 95%: 25,5-32,8 ngày). Vùng dưới đường cong biểu thị nồng độ thuốc theo thời gian AUC hàng tuần ở trạng thái ổn định là 578mg”ngày/l, nồng độ đỉnh là 110mg/l và nồng độ đáy là 66mg/l có thể đạt được trong vòng 143 ngày hoặc khoảng 20 tuần. Sau khi ngừng điều trị Herceptin, người ta cũng dự tính phải mất một khoảng thời gian tương tự để thải hết trastuzumab.
Đánh giá trên những bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm được điều trị Herceptin với liều tải khởi đầu là 8mg/kg, sau đó là liều duy trì 6mg/kg mỗi ba tuần cho thấy nồng độ thấp nhất đạt được ở trạng thái ổn định là 63mg/l, tại vòng điều trị 13. Nồng độ này tương đương với nồng độ ghi nhận trước đây trên những bệnh nhân bị ung thư vú di căn.
Việc dùng các thuốc hóa trị phối hợp (hoặc anthracycline/cyclophosphamide hoặc paclitaxel hoặc docetaxel) không ảnh hưởng đến dược động học của trastuzumab. Việc dùng anastrozole phối hợp cũng không ảnh hưởng đến dược động học của trastuzumab.
Ung thư dạ dày tiến triển
Dược động học ở trạng thái ổn định trong ung thư dạ dày tiến triển
Phương pháp dược động học trên dân số sử dụng dữ liệu từ nghiên cứu BO18255 pha III, được áp dụng để đánh giá dược động học ở trạng thái ổn định ở những bệnh nhân ung thư dạ dày tiến triển dùng trastuzumab mỗi 3 tuần với liều tải là 8mg/kg, sau đó liều duy trì mỗi 3 tuần là 6mg/kg. Theo phương pháp này, độ thanh thải điển hình của trastuzumab là 0,378 l/ngày và thể tích phân bố điển hình là 3,91l, thời gian bán thải ở trạng thái cân bằng tương ứng là 12,2 ngày. Trung vị giá trị AUC ở trạng thái ổn định được dự đoán (trong khoảng thời gian 3 tuần ở trạng thái ổn định) là 1030 mg.ngày/l, giá trị Cmax trung vị ở trạng thái ổn định là 128mg/l và các giá trị Cmin trung vị ở trạng thái ổn định là 23mg/l. Nồng độ ở trạng thái ổn định đạt được sau 49 ngày (4 lần thời gian bán thải ở trạng thái cân bằng) hoặc xấp xỉ 7 tuần.
Dược động học ở những đối tượng đặc biệt
Các nghiên cứu dược động học chi tiết ở người già và những người suy gan hoặc suy thận chưa được tiến hành.
Người già
Tuổi tác không có ảnh hưởng đến đặc tính dược động của trastuzumab (xem phần Liều lượng và cách dùng)
An toàn tiền lâm sàng
Tính gây quái thai
Các nghiên cứu về tính sinh sản được tiến hành trên khỉ cynomolgus với Herceptin tại liều gấp 25 lần liều duy trì ở người là 2mg/kg và cho thấy không có bằng chứng nào về suy giảm khả năng sinh sản hoặc có hại cho thai. Tuy nhiên, khi đánh giá nguy cơ về độc tính sinh sản ở người, nên cân nhắc ý nghĩa của thụ thể HER2 ở loài gậm nhấm trên sự phát triển phôi bình thường và sự chết phôi ở chuột bị đột biến thiếu thụ thể này. Đã ghi nhận trastuzumab truyền qua nhau thai trong giai đoạn phát triển thai sớm (ngày thụ thai thứ 20-50) và giai đoạn muộn (ngày thụ thai 120-150).
Các độc tính khác
Bà mẹ cho con bú
Một nghiên cứu được tiến hành ở khỉ cynomolgus đang cho con bú tại liều gấp 25 lần liều duy trì hàng tuần ở người là Herceptin 2mg/kg cho thấy trastuzumab được tiết qua sữa mẹ. Sự hiện diện của trastuzumab trong huyết thanh khỉ con không gây bất cứ tác dụng bất lợi nào lên sự tăng trưởng và phát triển từ lúc sinh cho đến 1 tháng tuổi.
Chỉ định
Ung thư vú di căn (MBC)
Herceptin được chỉ định để điều trị bệnh nhân ung thư vú di căn có khối u bộc lộ quá mức HER2:
a) dưới dạng đơn trị cho những bệnh nhân đã được điều trị bằng một hay nhiều phác đồ hóa trị cho bệnh ung thư di căn của họ.
b) kết hợp với paclitaxel hoặc docetaxel để điều trị những bệnh nhân chưa được dùng hóa trị cho bệnh ung thư di căn của họ.
c) kết hợp với thuốc ức chế aromatase để điều trị những bệnh nhân ung thư vú di căn có thụ thể hormone dương tính.
Ung thư vú giai đoạn sớm (EBC)
Herceptin được chỉ định để điều trị bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm có HER2 dương tính sau phẫu thuật, hóa trị (hỗ trợ trước phẫu thuật hoặc sau phẫu thuật) và xạ trị (nếu có).
Ung thư dạ dày di căn
Herceptin kết hợp với capecitabine hoặc 5-fluorouracil truyền tĩnh mạch và cisplatin được chỉ định để điều trị bệnh nhân ung thư dạ dày hoặc ung thư miệng nối dạ dày-thực quản di căn có HER2 dương tính mà trước đó chưa được điều trị chống ung thư cho bệnh ung thư di căn của họ.
Chống chỉ định
Herceptin được chống chỉ định ở những bệnh nhân mẫn cảm với trastuzumab hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng
Thận trọng chung
Chỉ nên điều trị bằng Herceptin dưới sự giám sát của các bác sĩ có kinh nghiệm trong việc điều trị các bệnh nhân ung thư.
Những phản ứng bất lợi nghiêm trọng của việc truyền Herceptin bao gồm khó thở, hạ huyết áp, khò khè, co thắt phế quản, nhịp tim nhanh, giảm độ bão hòa oxy và suy hô hấp đã được báo cáo tuy hiếm gặp. Nên ngừng truyền Herceptin và theo dõi bệnh nhân cho đến khi lui những triệu chứng này.
Những phản ứng nghiêm trọng được điều trị thành công với những liệu pháp hỗ trợ như oxy, thuốc chủ vận beta và corticosteroids (xem phần Tác dụng ngoại ý). Trong một số trường hợp hiếm gặp, những phản ứng này có thể gây tử vong. Những bệnh nhân có khó thở khi nghỉ ngơi do biến chứng của bệnh ác tính tiến triển hay bệnh đi kèm có thể bị tăng nguy cơ phản ứng gây tử vong do tiêm truyền. Do đó, phải theo dõi những bệnh nhân này rất cẩn thận và phải cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích của việc dùng thuốc đối với từng bệnh nhân (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Các biến cố về đường hô hấp nghiêm trọng cũng đã được báo cáo, tuy hiếm gặp, khi sử dụng Herceptin sau khi thuốc lưu hành trên thị trường. Các biến cố hiếm gặp này đôi khi gây tử vong. Ngoài ra, các trường hợp hiếm gặp như thâm nhiễm phổi, hội chứng suy hô hấp cấp, viêm phổi nhiễm trùng, viêm phổi, tràn dịch màng phổi, suy hô hấp, phù phổi cấp và giảm chức năng hô hấp cũng đã được báo cáo. Các biến cố này có thể xảy ra trong lúc truyền hoặc xuất hiện muộn hơn. Bệnh nhân có bệnh phổi nội tại có triệu chứng hoặc u lan tỏa ở phổi, gây khó thở khi nghỉ ngơi, có thể có nguy cơ cao bị các phản ứng nghiêm trọng trên (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Suy tim (theo phân loại của Hội Tim mạch New York [NYHA] từ độ II đến độ IV) được ghi nhận trên những bệnh nhân điều trị với Herceptin đơn thuần hay kết hợp với paclitaxel sau khi sử dụng hóa trị liệu bao gồm anthracycline (doxorubicin hoặc epirubicin). Suy tim có thể từ trung bình đến nặng và có thể dẫn đến tử vong (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Nên thận trọng khi điều trị cho những bệnh nhân suy tim triệu chứng, có tiền sử tăng huyết áp, bệnh mạch vành; và với ung thư vú giai đoạn sớm, nên thận trọng ở những bệnh nhân có phân suất tống máu là 55% hoặc ít hơn. Những người có chỉ định điều trị Herceptin, đặc biệt là những người được điều trị trước đó với anthracycline và cyclophosphamide (AC), nên được kiểm tra tim mạch bao gồm hỏi bệnh sử và khám lâm sàng, điện tâm đồ (ECG), siêu âm tim, và/hoặc MUGA scan. Nên cân nhắc cẩn thận giữa nguy cơ và lợi ích trước khi quyết định điều trị bằng Herceptin.
Trong ung thư vú giai đoạn sớm, thử nghiệm HERA không bao gồm những bệnh nhân dưới đây, vì vậy không có đủ dữ liệu để cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích và do đó không nên điều trị Herceptin cho những bệnh nhân này:
– Có tiền sử bị suy tim sung huyết
– Loạn nhịp tim nguy cơ cao không kiểm soát được
– Chứng đau thắt ngực cần phải được điều trị bằng thuốc
– Bệnh lý van tim có ý nghĩa về mặt lâm sàng
– Có bằng chứng của nhồi máu xuyên vách trên điện tâm đồ
– Cao huyết áp kém đáp ứng với điều trị
Nên theo dõi thêm về chức năng tim khi điều trị (ví dụ như mỗi ba tháng). Việc theo dõi có thể giúp phát hiện những bệnh nhân có rối loạn chức năng tim.
Bệnh nhân có rối loạn chức năng tim nhưng không có triệu chứng có thể cần được theo dõi thường xuyên hơn (ví dụ mỗi 6-8 tuần). Nếu chức năng thất trái tiếp tục giảm, nhưng vẫn không có triệu chứng, thầy thuốc nên cân nhắc khả năng ngừng thuốc nếu không thấy lợi ích lâm sàng của Herceptin.
Nếu LVEF giảm10 điểm phân suất tống máu so với lúc ban đầu và dưới 50%, nên tạm dừng Herceptin và đánh giá lại LVEF trong khoảng 3 tuần. Nếu LVEF không được cải thiện, hoặc giảm nhiều hơn, nên ngừng sử dụng Herceptin, trừ khi lợi ích điều trị cho cụ thể từng bệnh nhân cao hơn hẳn nguy cơ.
Nếu suy tim có triệu chứng xảy ra khi điều trị bằng Herceptin, nên áp dụng những phương pháp điều trị chuẩn cho suy tim. Nên ngừng điều trị Herceptin ở những bệnh nhân có suy tim biểu hiện lâm sàng trừ khi lợi ích điều trị cho bệnh nhân cao hơn hẳn nguy cơ.
Tính an toàn của việc tiếp tục hoặc tái điều trị Herceptin cho những bệnh nhân bị độc tính tim mạch chưa được khảo sát một cách tiền cứu. Tuy nhiên, hầu hết những bệnh nhân bị suy tim trong những nghiên cứu lâm sàng then chốt đều cải thiện với việc điều trị nội khoa chuẩn. Chế độ điều trị này bao gồm thuốc lợi tiểu, glycoside trợ tim, và/hoặc các thuốc ức chế men chuyển angiotensin. Đa số bệnh nhân có triệu chứng về tim và có bằng chứng về lợi ích lâm sàng của Herceptin tiếp tục điều trị Herceptin mỗi tuần mà không bị thêm một biến cố lâm sàng nào về tim mạch.
Benzyl alcohol, được dùng làm chất bảo quản trong nước pha tiêm có tính chất kìm khuẩn trong lọ đa liều 440mg, có thể gây độc cho trẻ sơ sinh và trẻ 3 tuổi trở xuống. Khi dùng Herceptin cho bệnh nhân có tiền sử nhạy cảm với benzyl alcohol, nên pha Herceptin với nước để tiêm, và chỉ nên sử dụng một liều duy nhất từ mỗi lọ Herceptin. Bất cứ phần thuốc nào không sử dụng phải được hủy bỏ. Nước tinh khiết pha tiêm, dùng để pha lọ liều đơn 150mg, không chứa benzyl alcohol.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Phụ nữ có thai
Nên tránh sử dụng Herceptin khi có thai trừ khi lợi ích cho người mẹ cao hơn hẳn các nguy cơ tiềm tàng cho thai. Đã có báo cáo sau bán hàng về tình trạng thiểu ối ở phụ nữ có thai khi dùng Herceptin. Người ta không biết Herceptin có gây nguy hại cho thai hay không khi sử dụng trên phụ nữ có thai, hoặc thuốc có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản hay không. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy không có bằng chứng về giảm khả năng sinh sản hoặc gây hại cho thai nhi (xem phần Tính sinh quái thai).
Các bà mẹ cho con bú
Người ta cũng không biết liệu trastuzumab có tiết qua sữa mẹ hay không. Do IgG người được tiết qua sữa mẹ và những khả năng gây hại với nhũ nhi chưa được biết tới, nên tránh cho con bú trong khi điều trị với Herceptin (xem phần Các độc tính khác).
Tương tác thuốc
Không có các nghiên cứu về tương tác thuốc chính thức được tiến hành với Herceptin ở người. Chưa ghi nhận các tương tác thuốc có ý nghĩa lâm sàng với những thuốc sử dụng chung được dùng trong các thử nghiệm lâm sàng (xem phần Dược động học).
Tác dụng ngoại ý
Từ các thử nghiệm lâm sàng
Ung thư vú
Ung thư vú di căn
Bệnh nhân được điều trị bằng Herceptin đơn trị hoặc kết hợp với paclitaxel trong hai thử nghiệm lâm sàng then chốt. Khoảng 50% bệnh nhân có thể bị phản ứng không mong muốn. Các phản ứng không mong muốn thường gặp nhất là những triệu chứng liên quan đến tiêm truyền như sốt và lạnh run, thường xảy ra sau lần truyền Herceptin đầu tiên.
Các phản ứng không mong muốn được qui cho Herceptin xảy ra trong số ≥ 10% số bệnh nhân trong hai nghiên cứu lâm sàng then chốt gồm:
Toàn thân: đau bụng, suy nhược, đau ngực, ớn lạnh, sốt, nhức đầu, đau
Tiêu hóa: tiêu chảy, buồn nôn, nôn
Cơ xương: đau khớp, đau cơ
Da và phần phụ: nổi ban
Các phản ứng không mong muốn được qui cho Herceptin xảy ra trong số > 1% và < 10% bệnh nhân trong hai nghiên cứu lâm sàng then chốt gồm:
Toàn thân: đau lưng, bệnh giống cúm, nhiễm trùng, đau cổ, mệt, phản ứng quá mẫn.
Tim mạch: giãn mạch, nhịp tim nhanh trên thất, hạ huyết áp, suy tim, bệnh cơ tim, hồi hộp.
Tiêu hóa: biếng ăn, táo bón, khó tiêu
Máu và hạch bạch huyết: giảm bạch cầu
Chuyển hóa: phù ngoại biên, phù
Cơ xương: đau xương
Thần kinh: lo âu, trầm cảm, xây xẩm, mất ngủ, dị cảm, ngủ gà, tăng trương lực cơ, bệnh thần kinh ngoại biên.
Hô hấp: hen, ho nhiều, khó thở, chảy máu cam, bệnh phổi, tràn dịch màng phổi, viêm họng, viêm mũi, viêm xoang
Niệu sinh dục: Nhiễm trùng đường tiểu
Da và phần phụ: Ngứa, đổ mồ hôi, bệnh móng tay, da khô, rụng tóc, mụn trứng cá, ban dát sẩn
Trong một nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên khác, bệnh nhân bị ung thư vú di căn được điều trị docetaxel đơn trị hoặc kết hợp Herceptin.
Thử nghiệm TAnDEM là một thử nghiệm ngẫu nhiên, nhãn mở, so sánh giữa liệu pháp anastrazole đơn trị và anastrazole kết hợp với Herceptin ở những bệnh nhân ung thư vú di căn (xem phần Các nghiên cứu lâm sàng/Hiệu quả). Trong thử nghiệm TAnDEM này, không có sự thay đổi về mặt bản chất hoặc tần suất của những biến cố bất lợi, khi so sánh với những thử nghiệm lâm sàng trước đó ở những bệnh nhân bị di căn.
Ung thư vú giai đoạn sớm
Thử nghiệm HERA là một thử nghiệm ngẫu nhiên, nhãn mở ở những bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm có HER2 dương tính (xem phần Các nghiên cứu lâm sàng/Hiệu quả). Bảng 2 cho thấy các biến cố bất lợi được ghi nhận tại thời điểm một năm trên ≥ 1% số bệnh nhân, theo nhóm điều trị
Ung thư dạ dày di căn
Thử nghiệm ToGA (BO18255E) là một thử nghiệm pha III, đa trung tâm, ngẫu nhiên, nhãn mở so sánh giữa liệu pháp trastuzumab kết hợp với fluoropyrimidine và cisplatin với hoá trị liệu đơn độc để điều trị bước đầu cho những bệnh nhân ung thư dạ dày di căn có HER2 dương tính.
Thông tin dưới đây liên quan đến tất cả các chỉ định:
Các triệu chứng liên quan đến truyền
Khi truyền Herceptin lần đầu tiên, bệnh nhân thường bị ớn lạnh và/hoặc sốt. Những triệu chứng và/hoặc dấu hiệu khác có thể gồm buồn nôn, nôn, đau, lạnh run, nhức đầu, ho, xây xẩm, nổi ban, suy nhược, và tăng huyết áp. Các triệu chứng này thường ở mức độ nhẹ đến trung bình, và ít xảy ra với những lần truyền Herceptin sau đó. Những triệu chứng này có thể được điều trị bằng thuốc giảm đau/hạ sốt như meperidine hoặc paracetamol, hoặc một kháng histamine như diphenhydramine (xem phần Liều lượng và cách dùng). Một vài phản ứng bất lợi khi truyền Herceptin bao gồm khó thở, giảm huyết áp, khò khè, co thắt phế quản, tim nhịp nhanh, giảm độ bão hòa oxy và suy hô hấp, có thể nghiêm trọng và có khả năng gây tử vong (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng).
Các phản ứng quá mẫn
Các phản ứng kiểu phản vệ đã được quan sát thấy trong một số trường hợp riêng lẻ.
Độc tính trên tim
Những dấu hiệu và triệu chứng của rối loạn chức năng tim như khó thở, khó thở khi nằm, ho tăng lên, phù phổi, có tiếng ngựa phi T3 hoặc giảm phân suất tống máu, đã được ghi nhận ở những bệnh nhân được điều trị với Herceptin (xem phần Chú ý đề phòng và thận trọng lúc dùng).
Dựa vào các tiêu chí được sử dụng để xác định rối loạn chức năng tim, trong các thử nghiệm di căn then chốt tỉ lệ bị các rối loạn này thay đổi trong khoảng 9% đến 12% trong phân nhóm được điều trị bằng Herceptin + paclitaxel, so với 1% – 4% cho phân nhóm điều trị với paclitaxel đơn thuần. Với đơn trị liệu bằng Herceptin, tỉ lệ này là 6% – 9%. Tỉ lệ bị rối loạn chức năng tim cao nhất gặp ở bệnh nhân được điều trị Herceptin + anthracycline/cyclophosphamide (27% – 28%), cao hơn đáng kể so với tỉ lệ được báo cáo ở bệnh nhân trong phân nhóm điều trị anthracycline/cyclophosphamide đơn thuần (7% – 10%). Trong một thử nghiệm sau đó có theo dõi tiền cứu về chức năng tim, tỉ lệ suy tim có triệu chứng là 2,2% ở những bệnh nhân dùng Herceptin và docetaxel, so với 0% ở những bệnh nhân dùng docetaxel đơn thuần. Trong thử nghiệm HERA, 0,6% số bệnh nhân trong nhóm điều trị một năm được ghi nhận có suy tim độ III-IV theo phân loại của NYHA.
Do thời gian bán thải trung bình cuối cùng của Herceptin là 28,5 ngày (khoảng tin cậy 95%: 25,5 – 32,8 ngày), trastuzumab có thể còn trong máu cho đến 20 tuần (khoảng tin cậy 95%: 18-24 tuần) sau khi ngừng điều trị. Vì sử dụng anthracycline trong giai đoạn này có thể dẫn đến nguy cơ gia tăng bị rối loạn chức năng tim, ngoài việc theo dõi chức năng tim cẩn thận còn cần phải đánh giá kỹ lưỡng về các nguy cơ so với lợi ích khi điều trị.
Ung thư dạ dày tiến triển
Trong thử nghiệm ToGA, ở thời điểm sàng lọc, giá trị LVEF trung vị là 64% (trong khoảng 48% – 90%) trong nhóm FP và 65% (trong khoảng 50% – 86%) trong nhóm FP+H.
Phần lớn các trường hợp giảm LVEF trong thử nghiệm ToGA là không có triệu chứng, ngoại trừ 1 bệnh nhân trong nhóm dùng Herceptin giảm LVEF trùng với suy tim.
Độc tính về huyết học
Ung thư vú
Độc tính về huyết học ít khi xảy ra khi sử dụng Herceptin đơn trị trong trường hợp có di căn, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu và thiếu máu độ III theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế Giới (TCYTTG), xảy ra trong số < 1% bệnh nhân. Không thấy độc tính độ IV theo phân loại của TCYTTG. Có sự gia tăng độc tính huyết học độ III hoặc độ IV theo phân loại của TCYTTG ở những bệnh nhân được điều trị kết hợp Herceptin và paclitaxel so với những bệnh nhân chỉ điều trị paclitaxel đơn thuần (34% so với 21%). Độc tính về huyết học cũng tăng ở những bệnh nhân dùng Herceptin và docetaxel, so với docetaxel đơn thuần (32% giảm bạch cầu độ 3/4 so với 22%, áp dụng tiêu chí NCI-CTC). Tỉ lệ sốt do giảm bạch cầu đa nhân trung tính/ nhiễm trùng huyết do giảm bạch cầu đa nhân trung tính cũng tăng ở những bệnh nhân được điều trị với Herceptin cùng docetaxel (23% so với 17% cho những bệnh nhân được điều trị bằng docetaxel đơn thuần).
Áp dụng tiêu chí NCI-CTC, trong thử nghiệm HERA, 0,4% bệnh nhân được điều trị bằng Herceptin có thay đổi độ III hoặc IV so với lúc ban đầu, so với 0,6% trong nhóm chứng.
Ung thư dạ dày tiến triển
Các biến cố bất lợi nằm trong mục Rối loạn hệ máu và bạch huyết mà được báo cáo thường xuyên nhất, Độ ≥ 3 và xảy ra với tỉ lệ ít nhất 1% do điều trị trong thử nghiệm được chỉ ra dưới đây:
Tổng số phần trăm bệnh nhân có 1 biến cố bất lợi ≥ Độ 3 theo NCI CTCAE v3.0 mà được phân loại theo Phân loại cơ quan hệ thống (SOC) này là 38% trong nhóm FP và 40% trong nhóm FP+H.
Nói chung, không có sự khác biệt có ý nghĩa về độc tính huyết học giữa nhóm điều trị và nhóm so sánh.
Độc tính trên gan và thận
Độc tính trên gan độ III hoặc độ IV theo phân loại của TCYTTG được ghi nhận trong số 12% bệnh nhân sau khi dùng Herceptin đơn trị, trong trường hợp có di căn. Độc tính này liên quan đến sự tiến triển bệnh tại gan trong số 60% bệnh nhân.
Độc tính trên gan độ III hoặc độ IV theo TCYTTG ít gặp hơn ở những bệnh nhân được điều trị phối hợp Herceptin và paclitaxel so với những bệnh nhân được điều trị bằng paclitaxel đơn thuần (7% so với 15%). Chưa ghi nhận độc tính trên thận độ III hoặc độ IV theo phân loại của TCYTTG.
Ung thư dạ dày tiến triển
Trong thử nghiệm ToGA, không ghi nhận sự khác nhau có ý nghĩa về độc tính tại gan và thận giữa hai nhóm điều trị.
Tiêu chảy
Ung thư vú
Trong số các bệnh nhân dùng Herceptin đơn trị trong bệnh cảnh di căn, 27% số bệnh nhân bị tiêu chảy. Người ta cũng ghi nhận tăng tỉ lệ tiêu chảy, thường ở mức độ từ nhẹ đến trung bình ở những bệnh nhân được điều trị Herceptin kết hợp với paclitaxel so với những bệnh nhân được điều trị bằng paclitaxel đơn thuần.
Trong thử nghiệm HERA, 7% số bệnh nhân được điều trị bằng Herceptin bị tiêu chảy.
Ung thư dạ dày tiến triển
Trong thử nghiệm ToGA, 109 bệnh nhân (37%) tham gia vào nhóm điều trị có dùng Herceptin so với 80 bệnh nhân (28%) ở nhóm so sánh đều ghi nhận tiêu chảy ở bất cứ cấp độ nào. Áp dụng tiêu chuẩn mức độ theo NCI-CTCAE v3.0, phần trăm bệnh nhân bị tiêu chảy ≥ Độ 3 là 4% ở nhóm FP và 9% ở nhóm FP+H.
Nhiễm trùng
Người ta cũng thấy có tăng tỉ lệ nhiễm trùng, chủ yếu là nhiễm trùng nhẹ đường hô hấp trên ít có ý nghĩa lâm sàng hoặc nhiễm trùng ống thông ở những bệnh nhân được điều trị với Herceptin.
Các phản ứng bất lợi nghiêm trọng
Có ít nhất một trường hợp trong số các phản ứng bất lợi nghiêm trọng sau đây đã xảy ra ở ít nhất một bệnh nhân được điều trị bằng Herceptin đơn thuần hoặc phối hợp với hóa trị trong các thử nghiệm lâm sàng:
Toàn thân: phản ứng quá mẫn, phản vệ và choáng phản vệ, mất điều vận, nhiễm trùng huyết, ớn lạnh và sốt, suy nhược, sốt, rét run, đau đầu, liệt nhẹ, đau ngực, mệt mỏi
Tim mạch: bệnh cơ tim, suy tim sung huyết, suy tim sung huyết nặng lên, giảm phân suất tống máu, giảm huyết áp, tràn dịch màng tim, nhịp tim chậm, bệnh mạch máu não
Tiêu hóa: hủy hoại tế bào gan, tiêu chảy, buồn nôn và nôn
Máu và hạch bạch huyết: bệnh bạch cầu, sốt do giảm bạch cầu đa nhân trung tính, giảm bạch cầu đa nhân trung tính, giảm tiểu cầu
Nhiễm trùng: viêm mô tế bào, viêm quầng
Hô hấp: co thắt phế quản, suy hô hấp, phù phổi cấp, giảm chức năng hô hấp
Da và phần phụ dưới da: nổi ban
Các bất thường về xét nghiệm
Tham khảo phần Từ các thử nghiệm lâm sàng
Sau khi lưu hành
Đã có thêm các phản ứng bất lợi nghiêm trọng dưới đây được báo cáo ở ít nhất một bệnh nhân sau khi thuốc lưu hành trên thị trường:
Toàn thân: các triệu chứng liên quan đến tiêm truyền, phù ngoại vi, đau xương, hôn mê, viêm màng não, phù não, tư duy bất thường.
Tim mạch: suy tim, choáng tim, viêm màng ngoài tim, tăng huyết áp
Tiêu hóa: viêm tụy cấp, suy gan, vàng da.
Máu và hạch bạch huyết: thiếu máu, giảm prothrombin huyết.
Cơ xương khớp: đau cơ.
Hô hấp: khó thở, giảm oxy máu, phù thanh quản, suy hô hấp cấp, hội chứng suy hô hấp ở người trưởng thành, tràn dịch màng phổi, thâm nhiễm phổi, viêm phổi nhiễm trùng, viêm phổi, xơ hóa phổi.
Thận: bệnh thận – tiểu cầu thận, suy thận
Da và phần phụ: viêm da, nổi mề đay.
Các giác quan: điếc.
Liều lượng và cách dùng
Cần phải xét nghiệm thử HER2 trước khi điều trị với Herceptin
Nên dùng Herceptin bằng đường truyền tĩnh mạch
Không được tiêm tĩnh mạch nhanh hoặc truyền nhanh.
Lịch truyền hàng tuần:
Liều tải: Liều tải khởi đầu được khuyến cáo là 4 mg/kg trọng lượng cơ thể truyền tĩnh mạch trong 90 phút. Bệnh nhân nên được theo dõi những triệu chứng như sốt và ớn lạnh hay những triệu chứng do tiêm truyền khác (xem phần Tác dụng ngoại ý). Ngừng truyền có thể kiểm soát được những triệu chứng này. Việc truyền có thể được tiếp tục lại khi các triệu chứng đã giảm bớt.
Liều kế tiếp: Liều khuyến cáo mỗi tuần của Herceptin là 2mg/kg trọng lượng cơ thể. Nếu liều dùng trước đó được dung nạp tốt, có thể truyền trong 30 phút. Bệnh nhân nên được theo dõi các triệu chứng như sốt và rét run hoặc các triệu chứng khác liên quan đến việc tiêm truyền (xem phần Tác dụng ngoại ý).
Trong các nghiên cứu lâm sàng, bệnh nhân được điều trị với Herceptin cho đến khi bệnh tiến triển.
Lịch truyền mỗi 3 tuần
Liều tải khởi đầu là 8mg/kg trọng lượng cơ thể, 3 tuần sau là 6mg/kg trọng lượng cơ thể và sau đó lặp lại liều 6mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi 3 tuần, truyền tĩnh mạch trong khoảng 90 phút. Nếu liều trước đó được dung nạp tốt, có thể truyền tĩnh mạch một liều trong khoảng 30 phút.
Nếu bệnh nhân quên liều của trastuzumab khoảng 1 tuần hoặc ít hơn, nên dùng liều thường lệ của trastuzumab (6mg/kg) càng sớm càng tốt (không nên chờ cho đến liều kế tiếp như đã định). Liều trastuzumab duy trì kế tiếp là 6mg/kg nên được dùng sau mỗi 3 tuần, theo như lịch truyền trước đây.
Nếu bệnh nhân quên liều của trastuzumab nhiều hơn một tuần, nên lặp lại liều tải (8mg/kg trong khoảng 90 phút). Liều trastuzumab duy trì kế tiếp là 6mg/kg nên được dùng sau đó mỗi 3 tuần tính từ thời điểm đó.
Trong các nghiên cứu lâm sàng, bệnh nhân ung thư vú di căn hoặc ung thư dạ dày di căn được điều trị bằng Herceptin cho đến khi bệnh tiến triển. Bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm cần điều trị trong 1 năm hoặc cho đến khi bệnh tái phát.
Giảm liều
Liều Herceptin không được giảm trong các nghiên cứu lâm sàng. Bệnh nhân có thể tiếp tục được điều trị với Herceptin trong khoảng thời gian ức chế tủy do hóa trị liệu có thể hồi phục, nhưng cũng nên theo dõi cẩn thận những biến chứng giảm bạch cầu trung tính ở bệnh nhân trong thời gian này. Cần tuân thủ những hướng dẫn đặc biệt về việc giảm hay giữ nguyên liều hóa trị liệu.
Các hướng dẫn sử dụng liều đặc biệt
Người già
Các dữ liệu cho thấy đặc tính dược động của Herceptin không bị biến đổi theo tuổi (xem phần Dược động học trên những đối tượng đặc biệt). Trong những nghiên cứu lâm sàng, liều Herceptin không được giảm ở những bệnh nhân cao tuổi.
Trẻ em
Hiệu quả và độ an toàn của Herceptin ở các bệnh nhi chưa được xác định.
Các hướng dẫn đặc biệt về sử dụng, thao tác và thải bỏ
Nên sử dụng kỹ thuật vô trùng thích hợp.
Lọ Herceptin 440mg được pha với 20ml nước kìm khuẩn để tiêm, có chứa 1,1% benzyl alcohol, đi kèm. Cách pha này tạo nên dung dịch được dùng làm nhiều lần, có chứa 21mg/ml trastuzumab, có độ pH xấp xỉ 6,0. Nên tránh sử dụng các dung môi khác để pha.
Lọ Herceptin 150mg được pha với 7,2ml nước vô trùng để tiêm.
Nên thao tác cẩn thận trong khi pha Herceptin. Tạo nhiều bọt trong khi pha hoặc lắc dung dịch Herceptin sau khi pha có thể gây khó khăn cho việc rút đúng lượng Herceptin ra khỏi lọ.
Hướng dẫn pha thuốc – lọ 440mg
1. Dùng một bơm tiêm vô trùng, tiêm chậm 20ml nước kìm khuẩn để pha dung dịch tiêm vào trong lọ thuốc có chứa bột Herceptin đông khô, bơm thẳng vào khối bột đông khô.
2. Xoay vòng lọ thuốc một cách nhẹ nhàng để giúp hòa tan. KHÔNG ĐƯỢC LẮC !
Hướng dẫn pha thuốc – lọ 150mg
1. Dùng một bơm tiêm vô trùng, tiêm chậm 7,2ml nước vô trùng để pha dung dịch tiêm vào ống thuốc có bột Herceptin đông khô, bơm thẳng vào khối bột đông khô.
2. Xoay vòng lọ thuốc một cách nhẹ nhàng để giúp hòa tan. KHÔNG ĐƯỢC LẮC !
Có thể thấy ít bọt xuất hiện sau khi pha. Để yên ống thuốc khoảng 5 phút. Dung dịch Herceptin sau khi pha là dung dịch trong suốt không màu đến màu vàng nhạt và về cơ bản là không nhìn thấy cặn.
Hướng dẫn pha loãng
Xác định thể tích dung dịch cần truyền dựa trên
– liều tải 4mg trastuzumab/kg trọng lượng cơ thể, hay liều duy trì 2mg trastuzumab/kg trọng lượng cơ thể:
Thể tích (ml) = [Trọng lượng cơ thể (kg) x liều (4mg/kg với liều tải hoặc 2mg/kg với liều duy trì)]/21(mg/ml, nồng độ dung dịch sau khi pha)
– liều tải 8mg trastuzumab/kg trọng lượng cơ thể, hay liều duy trì 6mg trastuzumab/kg trọng lượng cơ thể mỗi ba tuần:
Thể tích (ml) = [Trọng lượng cơ thể (kg) x liều (8mg/ kg với liều tải hoặc 6mg/kg với liều duy trì)]/21 (mg/ml, nồng độ dung dịch sau khi pha)
Lượng thuốc pha thích hợp nên được rút ra khỏi lọ thuốc và cho vào túi dịch truyền có chứa 250ml chloride natri 0,9%. Không nên sử dụng dung dịch Dextrose (5%) (xem phần Tính không tương thích). Nhẹ nhàng dốc ngược túi dịch truyền để hòa tan dung dịch mà không tạo bọt. Phải quan sát bằng mắt các sản phẩm thuốc tiêm truyền để phát hiện các mảnh cặn và hiện tượng đổi màu trước khi sử dụng. Nên sử dụng ngay sau khi đã chuẩn bị xong dịch truyền (xem phần Bảo quản).
Tương kỵ
Chưa ghi nhận có sự không tương thích giữa Herceptin và túi polyvinylchloride hay polyethylene.
Không nên sử dụng dung dịch Dextrose 5% vì nó có thể gây kết tủa protein.
Không nên pha hay hòa tan Herceptin với những thuốc khác.
Quá liều
Không có kinh nghiệm về hiện tượng quá liều trong các thử nghiệm lâm sàng trên người. Liều đơn trên 10mg/kg chưa được thử nghiệm.
Bảo quản
Bảo quản ở nhiệt độ 2-8oC.
Tuổi thọ của dung dịch sau khi pha
Lọ 440mg
Dung dịch sau khi pha với nước kìm khuẩn cho dung dịch tiêm từ lọ Herceptin 440mg, được cấp sẵn, ổn định trong 28 ngày khi được bảo quản ở nhiệt độ 2-8oC. Dung dịch đã pha có chứa chất bảo quản và vì thế phù hợp cho việc dùng nhiều lần. Bất cứ phần dung dịch sau khi pha còn lại đều phải bị hủy bỏ sau 28 ngày. Nếu dùng nước vô khuẩn để pha lọ 440mg, dung dịch chỉ ổn định trong 24 giờ, và phải được hủy bỏ ngay sau đó.
Không được làm đông lạnh dung dịch đã pha.
Lọ 150mg (chỉ sử dụng một lần)
Dung dịch sau khi pha ổn định về mặt vật lý và hóa học trong vòng 48 giờ ở nhiệt độ 2-8oC (không để đông lạnh) sau khi hòa tan với nước pha tiêm.
Về mặt vi sinh học, dung dịch Herceptin sau khi pha loãng nên được sử dụng ngay lập tức. Nếu không sử dụng ngay, người sử dụng phải chịu trách nhiệm về thời gian và điều kiện bảo quản trước khi sử dụng, thường không vượt quá 24 giờ ở nhiệt độ 2-8oC, trừ khi thao tác pha thuốc được tiến hành ở những điều kiện vô trùng được công nhận và kiểm soát.
Tuổi thọ của dung dịch truyền có chứa thuốc sau khi pha
Dung dịch truyền (dung dịch truyền sodium chloride 0,9%) có chứa thuốc sau khi pha ổn định về mặt vật lý và hoá học trong 24 giờ (không bảo quản trên 30oC).
Về mặt vi sinh học, dung dịch truyền Herceptin nên được sử dụng ngay lập tức. Nếu không sử dụng ngay, người sử dụng phải chịu trách nhiệm về thời gian và điều kiện bảo quản trước khi sử dụng, thường không vượt quá 24 giờ ở nhiệt độ 2-8oC, trừ khi thao tác pha thuốc được tiến hành ở những điều kiện vô trùng được công nhận và kiểm soát.
Hoffmann – La Roche
Nguồn. Thuốc, biệt dược
Chưa có bình luận.