Thứ Ba, 06/09/2016 | 15:06

Sỏi hệ tiết niệu bao gồm sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và niệu đạo, sỏi thận, niệu quản và bàng quang hay gặp hơn

Khái niệm

Sỏi hệ tiết niệu bao gồm sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang và niệu đạo, sỏi thận, niệu quản và bàng quang hay gặp hơn:

– Sỏi thận là một bệnh phổ biến trên thế  giới. Việt Nam nằm trong “vành đai” mắc sỏi  thận khá cao. Theo Nordin bệnh nhân bị sỏi thận chiếm 2-3%  tổng số bệnh nhân nhập viện, nhưng ở các nước thuộc vùng “vành đai” sỏi thì tần số người mắc bệnh càng cao hơn: Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia, ấn Độ… Tần số bị sỏi ở nam gấp hai lần ở nữ. Tuổi mắc bệnh hay gặp là từ 30-50  tuổi.

Những người làm việc tĩnh tại, trong các hầm mỏ hay chỗ nóng bức dễ mắc bệnh sỏi.Chế độ ăn, nước uống nhiều calci,phosphat, oxalat…được cho là những nguyên nhân thuận lợi gây sỏi  thận.

Khí hậu nóng, khô, hạn chế khối lượng nước tiểu bài tiết cũng dễ gây mắc bệnh sỏi.Sau cùng yếu tố di truyền được nêu lên trong một số bệnh như bệnh sỏi Cystine, sỏicalci trong bệnh toan ống thận.

– Sỏi niệu quản phần lớn là do sỏi thận rơi xuống (80% các trường hợp). Sự di chuyển  của sỏi thận xuống niệu quản có 80% xuống bàng quang ra ngoài (theo A. Jaclin: sỏi  có đường kính < 6mm thì 80% được thải ra ngoài trong vòng 3 tháng). Số còn lại nằm lại các chỗ hẹp sinh lý (niệu quản sát bàng quang, niệu quản bắt chéo động mạch  chậu) và nhanh chóng dẫn đến biến chứng cho thận.

– Sỏi bàng quang: ngoài những đặc điểm chung của sỏi hệ tiết niệu còn có những đặc  điểm riêng, thường xảy ra ở nam giới và liên quan đến sự ứ đọng của nước tiểu do chướng ngại ở cổ bàng quang hay niệu đạo.

Việc chẩn đoán và điều trị sỏi bàng quang đơn giản hơn so với sỏi ở phần trên của hệ tiết niệu.

Lý thuyết về hình thành sỏi

1. Sỏi thận

Thành phần cấu tạo sỏi rất khác nhau và quá trình  hình thành sỏi cũng rất phức tạp. Hiện nay chưa có một lý thuyết tổng quát về hình thành sỏi.

Có 2 hướng nghiên cứu về vấn đề này:

– Sỏi  được hình thành trong nhu mô thận: Randall (1937) và Carr (1954).

– Sỏi được hình thành trong lòng hệ tiết niệu: đây là lý thuyết được công nhận rộng rãi  nhất. Sự hình thành sỏi phải trải qua nhiều giai đoạn: hình thành nhân sỏi, kết tụ các nhân sỏi, cố định sỏi ở một vị trí nhất định và từ đó sỏi to dần lên.

Lý thuyết về hình thành sỏi được áp dụng cho tất cả các loại sỏi, đặc biệt đối với sỏi  calci  là loại hay gặp nhất.

1.1. Sỏi calci

Dưới dạng oxalat calci hoặc phosphat calci. Các hoàn cảnh bệnh lý của sỏi calci  thường gặp là:

– Tăng calci niệu

– Rối loạn chuyển hóa

– Tăng oxalat niệu

1.2. Sỏi kết hợp với nhiễm khuẩn

Thành phần bao gồm phosphat, amoniac và magnesi. Trên thực tế thường kết hợp với carbonat apatit, dưới dạng sỏi san hô hai bên thận dẫn đến suy thận, hay gặp ở nữ.  Các vi khuẩn Protéus, Pseudomonas, Klebsiella, Staphylococcus… tác động lên urê niệu làm cho nước tiểu biến thành kiềm (pH>7) và làm tăng các thành phần  bicarbonat và ion amonium gây ra loại sỏi này.

1.3. Sỏi acid uric

Acid uric được lọc qua cầu thận rồi tái hấp thu ở ống lượn xa với lượng khoảng 400mg/24 giờ.  ở pH  = 5, nước tiểu bảo  hòa  với 60mg acid  uric, ở pH  = 6 nước tiểu  bảo hòa với 220mg acid uric. Như vậy ở pH  thấp của  nước tiểu  sỏi acid  uric dễ hình thành.

2. Sỏi niệu quản

Như trên đã nói sỏi niệu quản 80% là do rơi từ thận xuống. Một số sỏi niệu quản sinh ra tại chỗ do dị dạng niệu quản  như: niệu quản phình to, niệu quản tách đôi, niệu quản sau tĩnh mạch chủ… Đó là các yếu tố làm dễ cho sự ứ đọng nước tiểu dẫn đến sự  lắng đọng các tinh thể để kết tụ thành sỏi.

3. Sỏi bàng quang: có 2 loại:

3.1. Sỏi có tính chất địa phương

Gặp ở các trẻ em nam ở các nước đang  phát triển. Nguyên nhân là do thức ăn thiếu   chất đạm và tình trạng mất  nước (déhydratation) kéo dài. Thành phần chủ yếu của  sỏi là urat anmonium, oxalat calci.

3.2. Sỏi thứ phát

Hay gặp nhất, do ứ đọng và nhiễm khuẩn. Sự ứ đọng mạn tính nước tiểu trong bàng  quang hay gặp ở nam giới trong bệnh u xơ tiền liệt tuyến, xơ hẹp cổ bàng quang, hẹp niệu đạo…  Nhiễm khuẩn ở bàng  quang do đặt ống  thông tiểu lâu ngày, do trứng sán máng (bilharziose), do u bàng  quang… cũng là nguyên nhân gây sỏi bàng quang.

Sỏi bàng quang do sỏi trên thận và niệu quản rơi xuống chỉ khi có bất thường tại cổ bàng quang: xơ hẹp cổ bàng quang, u bàng quang nằm tại cổ bàng quang, bàng  quang thần kinh…

Giải phẫu bệnh lý

1. Thành phần hóa học của sỏi

Sỏi calci (Oxalate và phosphate) chiếm tỷ lệ cao nhất (80%) tiếp đến là phospho anmoniaco magnesi (15%),  acid uric (2-3%) và cystin (1%).

– Sỏi oxalat calci có màu nâu, nhiều gai, rất rắn, cản quang, gặp cả 2 giới nhưng sỏi  phospho-anmoniac magnesi hay gặp ở nữ giới.

– Sỏi  acid uric có màu hung, rắn, không cản quang, gặp ở châu Âu nhiều hơn châu á.

– Sỏi Cystin có màu nâu nhạt, rắn, ít cản quang, xuất  hiện ở bệnh nhân trẻ.

Thực tế các thành phần này thường phối hợp với nhau để tạo thành sỏi hỗn hợp.

2. Hình thái và vị trí sỏi

2.1. Sỏi thận

– Sỏi  đài thận hình tròn hay nhiều cạnh nhưng bờ đều. Số lượng từ một đến hàng chục, có khi hàng trăm viên.

– Sỏi bể thận hình tam giác, nằm trong xoang (sinus) hay ngoài xoang thận.

– Sỏi san hô có hình dạng  như cành san hô với thân là ở bể thận và các nhánh nằm lan ra cổ đài thận và ngọn ở các đài thận.

2.2. Sỏi niệu quản

– Thường có hình bầu dục hoặc hình trụ, bờ nhẵn hay xù xì như quả dâu, đường kính thay đổi từ vài mm đến trên 1cm.

– Số lượng thường là 1 viên, có khi 2 viên. Nếu nhiều viên xếp kế tiếp nhau thì tạo thành “chuỗi sỏi niệu quản”. Sỏi niệu quản 2 hai bên rất nguy hiểm, dễ dàng dẫn tới vô niệu (anurie)

– Vị trí: 70-75% trường hợp sỏi  niệu quản nằm ở 1/3 dưới, 25-30% gặp ở 1/3 trên và 1/3 giữa niệu quản.

2.3. Sỏi bàng quang

– Sỏi bàng quang có kích thước khác nhau, bằng hạt ngô hay quả trứng vịt, hình tròn hay bầu dục, bờ đều, thường là 1 viên.

– Sỏi bàng  quang nằm ở đáy bàng  quang và di chuyển  theo tư thế của bệnh nhân.  Có  khi sỏi nằm ở cao do dính vào niêm mạc bàng quang hoặc lọt trong túi thừa bàng  quang. Có trường hợp sỏi  có hình dạng như quả chùy cắm vào xoang tiền liệt tuyến.

Triệu chứng lâm sàng

Sỏi thận và sỏi niệu quản đều gây nên tắc nghẽn của đường tiết niệu trên, do đó triệu chứng lâm sàng của 2 loại sỏinày gần như giống nhau. Trong khi đó sỏi bàng quang chủ yếu gây ra các  triệu chứng kích thích đường tiểu dưới. Do đó sẽ trình bày  làm  hai phần khác nhau (H 1.1).

1. Sỏi thận và sỏi niệu  quản

1.1. Triệu chứng cơ năng

– Cơn đau quặn thận (điển hình): đây là cơn đau kịch phát, xuất hiện đột ngột sau khi  bệnh nhân làm các động tác cố gắng hoặc lao động nặng (gánh vác, chạy nhảy…). Đau dữ  dội  như nghiền nát phủ tạng, đau nhất là ở vùng thắt lưng, lan dọc  xuống dưới kết thúc ở bộ phận sinh dục ngoài hay mặt trong đùi. Bệnh nhân không thể nằm yên trên giường được. ấn vào vùng thắt lưng gây đau dữ dội  (phản ứng cơ thắt lưng).

Kèm theo có thể nôn, bụng chướng, bí trung đại tiện, tiểu rắt buốt, tiểu máu toàn bãi. Cơn đau kéo dài vài chục phút, thậm chí vài ngày.

– Đau quặn thận không điển hình: đau âm ỉ  vùng thắt lưng, tăng lên khi lao động nặng hoặc đấm nhẹ vào vùng thắt lưng. Đau không có hướng lan.

– Rối loạntiểu tiện(đái rắt, đái buốt): gặp trong trường hợp sỏi niệu quản nằm sát  thành bàng quang, kích thích bàng quang gây nên các triệu chứng như viêm bàng  quang.

– Đái máu: là loại đái máu toàn bãi. Nước tiểu đỏ hồng, đỏ tươi, có khi có máu cục. Đái máu xảy ra sau khi  lao động nặng, di chuyển xa trên đường xóc, kèm theo có đau quặn thận.

– Đái đục: Nước tiểu từ vẩn đục tới đục như nước vo gạo, mùi thối…do có biến chứng nhiễm khuẩn tiết niệu.

– Vô niệu: lượng nước tiểu < 150ml/24 giờ. Đây là một biến chứng nguy hiểm của  sỏi  niệu quản hai bên hoặc một số sỏi thận hai bên.

1.2. Triệu chứng thực thể: chỉ khi sỏi đã gây biến chứng:

Thận to, đau ít do ứ nước.

– Thận to, đau, rung thận (+) do bị ứ nước nhiễm trùng hoặc ứ mủ.

1.3. Triệu chứng toàn thân

Sỏi thận-niệu quản gây biến chứng suy thận mạn, có thể khám thấy các triệu chứng của  tình trạng tăng urê máu cao mạn tính.

– Thiếu máu

– Gầy sút

– Nhức đầu, mất ngủ, ăn uống kém.

2. Sỏi bàng quang

– Bình thường bệnh nhân không cảm  thấy  gì hoặc chỉ thấy tức,  nặng ở hạ vị nếu sỏi  to. Chỉ khi bệnh nhân đi tiểu thì cảm giác đau mới rõ  rệt, đau tức  hạ vị, tăng lên vào cuối  bãi, đau lan theo niệu đạo ra miệng sáo. ở trẻ em vì đau nên trẻ cầm lấy dương  vật khóc, nước tiểu són ra tay nên ngửi có mùi khai, triệu  chứng “bàn tay khai”.

– Đái rắt do tình trạng bàng  quang bị kích thích thường xuyên.

– Đái tắc giữa dòng: bắt đầu đi tiểu thì tiểu dễ nhưng được một lúc thì cảm thấy  viên sỏi di chuyển xuống thấp  gây tắc tia tiểu. Xuất hiện tiếp theo đó đau buốt dọc niệu đạo.

– Đái ra máu cuối bãi.

– Đái đục nếu có nhiễm khuẩn kèm theo.

– Khám thực thể có thể  phát hiện  hẹp niệu đạo, u xơ tiền liệt tuyến hoặc nếu sỏi to có thể sờ thấy được qua thăm trực tràng.

Triệu chứng cận lâm sàng

1. Xét nghiệm sinh hóa máu và nước tiểu

– Định lượng Creatinin máu, Ure máu, độ thanh thải Creatinin và Ure; làm điện giải đồ, dự trữ kiềm… rất cần thiết để đánh giá chức năng thận và ảnh hưởng của  sỏi  tới thận, có giá trị tiên lượng và theo dõi.

– Tìm hồng cầu trong nước tiểu, tìm bạch cầu và cấy nước tiểu tìm vi khuẩn để phát hiện nhiễm trùng tiết niệu.

– Xác  định pH  nước tiểu, phân tích các loại tinh thể để biết bản chất sỏi.

2. Xét nghiệm hình ảnh: Rất quan trọng để chẩn đoán sỏi

2.1. Chụp hệ tiết niệu không chuẩn bị

Cho chẩn đoán sỏi trong > 95% các trường hợp, theo mức độ cản quang giảm  dần: sỏi phosphatcalci(Oxalate calci, phospho-ammoniaco-magnesi, cystine). Có  3-4%  không phát hiện  ra sỏi. Sỏi  không cản quang (sỏi  acid  uric và xanthine).

2.2. Siêu âm

– Có một số trường hợp là sỏi  cản quang nhưng khó phát hiện ra: sỏi  nằm chồng lên  xương (đốt  sống, xương  chậu) hoặc thận ứ nước lớn nằm che trước viên sỏi.

– Cần chẩn đoán phân biệt sỏi  cản quang với  sỏi  túi mật, sỏi  tụy, vôi  hóa tĩnh mạch (phlébolithe) thoái hóa cột  sống.

– Phát hiện ra được cả sỏi cản quang lẫn sỏi  không cản  quang do tính chất phản âm của 2 loại giống nhau.

– Đánh giá được mức  độ ảnh hưởng của sỏi  thận niệu quản lên thận qua hình ảnh dãn  đài bể thận và độ dày nhu mô thận.

2.2. Chụp niệu đồ tĩnh mạch

(UIV:  Urographie Intraveineuse) (H1.3): Các hình ảnh sau đây hay gặp trong sỏi thận và  niệu quản (sẽ  nói rõ hơn trong bài biến chứng sỏi  tiết niệu).

– Chậm bài tiết

– Chậm làm đầy

– Đài, bể thận, niệu quản giãn phía trên sỏi.

– Nếu là sỏi không cản quang (cần  kết hợp thêm với siêu âm) thì  thấy  hình khuyết sáng trong đường bài  tiết hoặc thuốc cản quang dừng tại một vị trí của niệu quản.

2.3. Chụp niệu quản-bể thận ngược dòng

(UPR: Urétéro-pyelographie rétrograde)

Được sử  dụng khi  không phát  hiện ra sỏi  trên phim hệ tiết  niệu  không chuẩn bị và UIV. Thuốc cản quang bơm ngược từ dưới lên sẽ dừng tại viên sỏi.

Biến chứng của sỏi tiết niệu

1. Đại cương

Tắc nghẽn đường tiết niệu đặc biệt là đường tiết niệu trên (do sỏi  thận và niệu quản), và nhiễm trùng tiết niệu là hậu quả chủ yếu của sỏi  tiết niệu và là nguyên  nhân của  tất  cả  các biến chứng. Tình  trạng  tắc nghẽn đường  tiết  niệu trong đa số các  trường hợp đều dễ dàng  đánh giá được bằng siêu âm thận và chụp niệu đồ tĩnh mạch (UIV). Tiên lượng của  sỏi thận phụ thuộc vào hai yếu tố:

– Xu hướng tái phát sỏi  tùy thuộc vào nguyên nhân gây sỏi

– Ảnh hưởng của sỏi lên chức  năng thận do tắc nghẽn nhiễm trùng và đôi khi  là hậu  quả của các phương pháp điều trị niệu khoa lấy sỏi.

2. Tiến triển của sỏi tiết niệu

2.1. Một viên sỏi có thể nằm yên tại chỗ trong thận nhiều tháng đến nhiều năm

– Trong khoảng thời gian này,  viên  sỏi  có thể  tăng kích thước nếu các bất thường về sinh hóa gây ra sỏi  vẫn  còn tồn tại,  nếu không  thì  kích  thước của nó không thay đổi. Viên sỏi  có thể gây ra:

+ Đái máu vi thể hay đại thể.

+ Tắc nghẽn đường tiết niệu phía trên sỏi, dẫn tới giãn đài-bể thận và nhiễm  trùng tiết niệu.

+ Sỏi nằm lâu trong thận nhất là sỏi ở các  đài thận dưới hoặc sỏi tạo thành trong các túi thừa bể thận hay đài thận.

–  Sỏi  thận-niệu quản có thể di chuyển xuống dưới, vào bàng  quang và được thải ra ngoài hay không là phụ thuộc vào:

+ Vị trí sỏi: sỏi  đài dưới khó di chuyển

+ Kích thước: đường kính  sỏi < 4mm thì  80% được đái ra tự nhiên, < 6mm có 60%.

+ Hình dáng sỏi và bề mặt: Sỏi tròn hay bầu dục, bờ  đều dễ dàng  di chuyển  xuống dưới hơn sỏi  góc cạnh xù xì.

+   Bản chất sỏi: sỏi không cản quang (acid  uric và trong vài trường hợp, sỏi urate và cystine) có thể tan ra khi  kiềm hóa nước tiểu.

2.2. Một viên sỏi niệu quản nếu không được thải ra ngoài tự nhiên hoặc điều trị thích hợp sẽ nhanh chóng ảnh hưởng tới chức năng thận

Thận  giãn do ứ nước.

– Viêm thận bể thận cấp

– Thấn  ứ mủ  do nhiễm trùng

– Mất chức  năng của thận nếu tắc nghẽn niệu quản thời gian dài

3. Sỏi bàng quang

Được tạo thành do các bất thường vùng cổ bàng quang + niệu đạo (u xơ tiền liệt tuyến, hẹp niệu đạo…) rất hiếm khi được đái ra ngoài  mà thường phát triển ngày  càng  to lên, nhiều  trường hợp đạt kích thước rất lớn. Sỏi bàng quang do rơi  từ thận xuống thường có kích  thước nhỏ, đa  số  trường hợp  được đái  ra ngoài tự nhiên. Có  nhiều  trường hợp  do  đường  kính  sỏi  lớn hơn khẩu kính  niệu  đạo,  viên sỏi  mặc dù đã lọt vào niệu đạo  rồi  nhưng không được  đái ra ngoài gây tắc  niệu  đạo  hoàn toàn  dẫn đến  bí  tiểu  cấp.  Một số  ít  sỏi  nằm trong một túi thừa niệu đạo, không cản trở lưu thông nước tiểu.

4. Sỏi thận và sỏi niệu quản

4.1. Thận ứ nước

Lâm sàng:

+ Nhiều bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng cho đến khi thấy xuất hiện một khối ngày càng to dần ở vùng thắt lưng hay vùng hông. Có bệnh nhân tới viện vì chấn  thương thận trên thận ứ nước do sỏi.

+ Thông thường trong bệnh sử bệnh nhân có: đau thắt lưng âm ỉ, có một vài  bệnh  nhân  bị đau quặn thận điển hình xa trong quá khứ nhưng không nghĩ là bị bệnh thận  nên  không điều trị gì hoặc chỉ điều trị giảm đau.

+ Khám thấy thận lớn: chạm thận (+),  bập bềnh thận (+).  Thậm chí nhiều trường hợp nhìn đã thấy  thận gồ lên ở vùng thắt lưng  hay vùng hông bằng quả cam, quả bưởi, to vượt quá đường giữa. Thận  to nhưng không chắc mà ấn căng.

+ Rung thận: đau ít.

– Cận lâm sàng:P him hệ tiết niệu không chuẩn bị: (AUSP: Arbre Urinaire Sans Préparation)

– Bóng thận lớn: mờ vùng hố  thận, che  khuất bờ ngoài  cơ thắt  lưng (psoas), chiều cao thận từ cực trên đến cực dưới lớn hơn  chiều cao 3 đốt sống thắt lưng, bờ thận có thể cong  đều hoặc nhiều múi.

– Sỏi  cản quang: thông thường phát hiện ra sỏi  gây tắc nghẽn:

+ Sỏi  niệu quản:  kích  thước thường lớn ( > 10mm), nằm ở các  vị trí  hẹp (trên chỗ bắt chéo động mạch chậu, tiểu khung sát bàng quang)

+ Sỏi thận: thường là một viên sỏi bể thận là nguyên nhân gây tắc và rất nhiều viên sỏi  nhỏ tròn đều nằm ở đài  thận dưới: đây là các viên sỏi tạo thành do sự  ứ đọng nước tiểu quá mức  trong thận.

Siêu âm:

– Trước một thận lớn siêu âm cho  phép phân  biệt thận lớn do ứ nước hoặc do  các   nguyên  nhân khác  (ung thư thận, nang thận đơn độc, thận đa nang…)

– Xác  định được tình trạng ứ nước của  đài-bể thận đánh giá ảnh hưởng của sỏi  lên  thận: kích  thước thận, tính  đều  đặn  của  bờ  thận, độ dày  và tính chất  cản âm của  nhu mô thận.

Chụp niệu đồ tĩnh mạch: (UIV)

– Cho  thấy hình ảnh hệ tiết niệu và chức  năng thận.

– Phải luôn chụp hệ tiết  niệu  không chuẩn  bị trước. Trên  UIV thấy  các hình ảnh sau:

+ Sỏi  cản   quang  biểu hiện  bằng hình  ảnh trắng   đậm, sỏi  không cản quang là hình khuyết nằm giữa chất cản  quang.

+ Chậm bài tiết thuốc cản quang: bình thường trên  phim chụp ngay sau khi  tiêm thuốc cản quang vào tĩnh mạch đã thấy  được thuốc cản  quang ngấm  đầy nhu mô thận và các  ống thận  và trên phim chụp sau 3 phút thấy  thuốc cản  quang lấp đầy các đài thận và bể thận. Thận có sỏi  thì ngấm thuốc chậm   hơn  (vài  phút đến  vài  chục   phút,  thậm chí vài giờ),hoặc hoàn toàn  không bài xuất  thuốc cản quang. Vì vậy phải chụp trên  các phim chậm sau 6 giờ  -12  giờ  – 24  giờ  để đánh giá được chính xác chức năng về hình thái thận.

+ Đài bể thậngiãn: bình thường các đài bể thận lõm.  Nếu có tình  trạng tắc nghẽn làm  tăng áp lực các đài thận sẽ giãn ra trở thành lồi. Nếu thận ứ nước lớn sẽ thấy các  đài thận giãn to như những bóng trắng mờ nhỏ. Nếu là sỏi  niệu quản thì có thể  cả  bể  thận niệu quản cũng giãn mất trương lực, giảm nhu động.

+ UIV còn giúp phát hiện những bất thường hình thái bẩm sinh hay mắc phải: hội chứng khúc nối  bể thận – niệu quản, túi thừa bể thận hay đài thận, phình niệu quản bẩm sinh…

4.2. Viêm thận bể thận cấp

Lâm sàng:

+ Sốt  cao > 390,  rét run.  Nếu có biến chứng nhiễm trùng huyết  thì có thể có shock: mạch nhanh, huyết áp tụt. Đây  là một cấp cứu  niệu  khoa. Tình trạng tắc nghẽn gây nhiễm trùng do sỏi này cần được giải quyết cấp cứu  bằng dẫn  lưu nước tiểu (qua sonde niệu quản) và kháng sinh mạnh, hồi  sức  tích cực.

+ Đau thắt lưng  một bên, thường là đau âm ỉ ít lan. Một số ít trường hợp trước đó vài giờ,  vài ngày  có đau quặn thận điển hình.

+ Nước tiểu có thể đục.

+ Khám thận lớn vừa phải.

+ Rung thận rất  đau, phản ứng cơ thắt lưng  (+).

– Cận lâm  sàng:  Ngoài  các xét nghiệm hình  ảnh (chụp hệ tiết  niệu  không chuẩn bị, siêu  âm,  UIV…) để  chẩn đoán  sỏi  và ảnh hưởng của sỏi,  cần làm  ngay cấy  nước tiểu  trước khi   cho  kháng  sinh để  xác định  loại vi khuẩn và làm kháng sinh đồ giúp chọn kháng sinh thích hợp.

4.3. Thận ứ mủ

Là hậu quả của  thận ứ nước bội  nhiễm (ứ  nước  nhiễm  trùng)  hoặc viêm thận bể thận cấp không điều trị triệt để. Biểu hiện lâm sàng tại chỗ  ít rầm  rộ hơn  viêm thận bể thận cấp nhưng triệu  chứng toàn  thân  thì nổi bật và chức năng thận bị ảnh hưởng nặng nề do tình trạng xơ thận vì mủ kèm theo.

– Bệnh nhân ít khi sốt cao  rét run mà  thường là sốt âm ỉ, có bệnh nhân hoàn toàn  không sốt.

– Toàn trạng suy sụp: gầy sút, xanh xao, niêm mạc nhợt nhạt…biểu hiện một tình trạng nung mủ sâu kéo dài.

– Đau âm ỉ  thắt lưng

– Đái đục, đái mủ.

– Khám thận lớn, căng đau vừa phải.

– Rung thận (+) nhưng không có phản ứng cơ thắt lưng.

– Các xét nghiệm:

+ Cấy nước tiểu làm kháng sinh đồ

+ AUSP, UIV, siêu âm: thấy đài bể thận giãn có dịch lợn cợn hồi âm (mủ) Thận đồ để đánh giá chính xác thận còn bao nhiêu % chức  năng để quyết định điều trị lấy sỏi , dẫn lưu thận hay cắt bỏ thận.

4.4. Suy thận cấp

Tình trạng vô niệu có thể xảy  ra khi có sỏi  niệu quản 2 bên, hoặc sỏi niệu quản bên này kết hợp sỏi  thận bên kia, hoặc sỏi  một bên thận còn thận bên kia mất chức năng vì nguyên nhân khác:

– Vô niệu: vài ngày trước bệnh nhân thiểu niệu (lượng nước tiểu (Vnt) <300ml/24 giờ) sau đó đi vào vô niệu (Vnt < 150ml/24 giờ).

– Hội chứng ure máu cao,  nổi  bật  nhất là các  triệu  chứng về thần kinh: nhức đầu,  mất  ngủ, lơ mơ,  hôn  mê… kèm theo là  các  triệu  chứng tiêu hóa: buồn nôn,  nôn, ỉa chảy, bụng chướng…

– Đau thắt lưng cả hai bên nhưng có một bên trội hơn.

– Khám thận lớn, đau, bụng chướng.

– Xét nghiệm:

+ Xét nghiệm  sinh hóa máu  (Créatinine, điện giải  đồ, dự trữ kiềm, pH máu…)

+ Điện  tâm đồ: phát hiện tăng K+  máu.

+ Chụp AUSP, siêu âm. Trong trường hợp này UIV không được chỉ định.

4.5. Suy thận mạn do sỏi

Tình trạng tắc nghẽn và nhiễm  trùng sẽ dẫn đến xuất hiện viêm thận kẽ mạn tính một bên hay hai bên. Suy thận mạn  iai đoạn cuối do sỏi  chiếm khoảng 5% tổng số các nguyên nhân suy thận mạn. Biểu hiện:

Phù

Cao huyết áp.

Protein niệu

Thiếu máu.

5.  Sỏi bàng quang

Sỏi bàng quang không gây nguy  hiểm cho  thận trừ trường hợp có  trào ngược  bàng quang-niệu  quản kèm theo, lúc đó viêm  bàng quang do sỏi  có thể dẫn tới viêm thận bể thận cấp do trào  ngược.

5.1. Viêm bàng quang cấp

– Không sốt, toàn  trạng ít thay đổi

– Đau tức nhẹ hạ vị, đau tăng khi  đi tiểu

– Tiểu đau buốt dọc niệu đạo, tiểu nhiều lần

– Nước tiểu đục, có máu cuối  bãi.

– Xét nghiệm:

+ Chụp AUSP, siêu âm

+ Cấy nước tiểu làm kháng sinh đồ.

5.2. Sỏi kẹt niệu đạo:

Hay gặp ở nam thanh niên

– Trước đó có các  triệu chứng của sỏi bàng  quang

– Bệnh nhân rặn nhiều, viên sỏi lọt vào niệu đạo và kẹt lại. Bí tiểu hoàn  toàn.

– Bệnh nhân không tiểu được từ nhiều giờ và đau dữ dội

– Khám cầu bàng  quang: căng to, ấn đau dữ dội.

– Sờ  dọc  niệu  đạo  có thể  thấy  viên sỏi  nằm ở niệu  đạo  tầng  sinh môn, gốc dương vật… Có thể phát hiện các vết sẹo cũ gây hẹp niệu đạo…

–  Xét nghiệm:  chụp AUSP để xác định sỏi.

Điều trị ngoại khoa sỏi tiết niệu

1. Khái niệm

Trong vòng vài thập niên gần đây, phương pháp điều trị sỏi  hệ tiết niệu trên thế  giới có nhiều biến đổi to lớn nhờ những tiến bộ trong lĩnh vực quang học, siêu âm và  laser. Với các phương pháp hiện đại  như “Tán sỏi  ngoài cơ thể”, “Lấy sỏi  thận qua da”,  “Lấy sỏi  qua ống soi niệu  quản”… Phương pháp phẫu thuật cổ điển dần  dần thu hẹp phạm vi chỉ định. Để hiểu được chỉ định cũng như biết được các phương pháp điều trị ngoại khoa sỏi  hệ tiết niệu, ta lần lượt nghiên cứu từng cơ quan hệ tiết niệu.

2.  Phương pháp điều trị ngoại khoa sỏi thận

2.1. Tán sỏi ngoài cơ thể

Tán sỏi ngoài cơ thể là một phương pháp ít  gây hoặc  không gây sang chấn,  áp dụng khá rộng rãi trong những năm gần đây.

– Về nguyên lý: Sóng xung động từ hệ thống điện áp hoặc điện từ, định vị sỏi bằng X quang hoặc bằng siêu âm. Sóng xung động tập trung vào một tiêu điểm (sỏi thận) với một áp lực cao (trung bình 800 – 1000  bares) làm vỡ hoặc làm vụn sỏi sau đó bài xuất ra ngoài  theo đường tự nhiên (H1.4)

– Chỉ định:

+ Phương pháp này chủ yếu áp dụng cho sỏi đài bể thận.

+ Sỏi có đường kính < 2cm, không rắn quá.

+ Bệnh nhân không có nhiễm trùng niệu.

+ Bệnh nhân không có bệnh về máu hoặc đang điều trị thuốc chống đông máu

+ Đường bài xuất  nước tiểu phải thông thương.

2.2. Lấy sỏi thận qua da

– Phương pháp:đặt ống soi vào thận xuyên qua thành lưng và nhu mô thận, dùng   dụng  cụ đặc biệt đưa qua ống nội soi lấy sỏi (H1.6)

Kỹ thuật đặt ống soi khó, dễ gây tai biến chảy máu, nhiễm khuẩn, thủng đại tràng…

– Chỉ định: các sỏi thận can thiệp  lần đầu. Sỏi đơn giản (sỏi bể thận, sỏi  đài dưới) có đường kính > 2cm  mà tán sỏi  ngoài  cơ thể không hiệu quả.

2.3. Phương pháp phẫu thuật

Mặc dù phương pháp phẫu thuật  thu hẹp lại, nhưng vai trò của nó  vẫn quan trọng, được áp dụng tùy theo điều kiện trang thiết bị, trình độ kỹ  thuật, tình trạng bệnh lý của người bệnh.

– Chỉ định:

+ Sỏi nhiễm khuẩn gây ứ nước, ứ mủ  thận.

+ Sỏi  trên thận hoặc đường tiết niệu dị dạng.

+ Sỏi  trên thận bệnh lý (lao,  u, chảy máu…)

+ Các phương pháp lấy sỏi  khác thất bại.

– Phương pháp:

+ Mổ lấy sỏi và dẫn lưu thận

+ Mổ lấy sỏi và tạo hình bể thận

+ Cắt thận một phần

+ Cắt thận

3. Phương pháp điều trị ngoại khoa sỏi niệu quản

3.1. Chỉ định

Căn cứ vào vị trí, kích thước, tính  chất của  sỏi, tình  trạng  bệnh  lý  của  các cơ quan hệ tiết niệu và tình trạng bệnh nhân  để chọn một trong các  phương pháp điều trị thích hợp dưới đây.

3.2. Phương pháp

– Thủ thuật niệu khoa

+ Đặt ống thông tại chỗ (2 – 3 ống thông xoắn kéo sỏi  ra)

+ Nội soi niệu quản: tán sỏi  tại  chỗ  bằng sóng hoặc móc  kéo sỏi  ra ngoài bằng ống thông móc (Ellik, Davis), ống thông giỏ (Johnson, Dormia).

+ Nong niệu quản (ống  thông kèm khí hoặc ống  thông có bóng)

+ Cắt đốt điện hay cắt nội soi miệng niệu quản

+ Nong miệng niệu quản.

– Phẫu thuật

+ Mổ lấy sỏi niệu quản

+ Mổ lấy sỏi niệu quản + tạo hình niệu quản.

+ Cắt bỏ thận và niệu quản

4. Phương pháp điều trị ngoại khoa sỏi bàng quang

4.1. Sỏi nhỏ

Không tắc đường tiểu dưới, không có bệnh tại bàng quang. Có thể sử dụng các  phương pháp sau:

– Nong niệu đạo để sỏi  tự thoát ra ngoài

– Gắp sỏi bằng kìm kẹp sỏi

– Gắp sỏi bằng nội  soi

4.2. Sỏi tương đối lớn

Không quá rắn, không bế  tắc đường tiểu dưới,  không xơ hóa cổ bàng quang, không có u hay viêm phù nề, dị dạng…

– Bóp vỡ và nghiền sỏi bằng kìm bóp  sỏi.

– Tán sỏi bằng máy Urat, siêu âm, laser

– Mổ bàng quang lấy sỏi  đơn thuần

– Mổ bàng quang lấy sỏi + tạo hình bàng quang.

5. Phương pháp điều trị ngoại khoa sỏi niệu đạo

– Gắp sỏi: sỏi kẹt ở miệng niệu đạo hay ở niệu đạo trước.

– Nong niệu đạo: sỏi kẹt ở niệu đạo sau, niệu đạo màng

– Đẩy sỏi vào bàng quang rồi  gắp sỏi.

– Mở bàng quang lấy sỏi (lấy sỏi qua bàng quang)

– Mổ niệu đạo lấy sỏi:  chỉ áp dụng cho  những trường hợp trên thất bại hoặc sỏi  lớn kẹt chặt ở niệu đạo. Sau khi  lấy sỏi  khâu kín niệu đạo và dẫn lưu  bàng  quang.

Kết luận

Sỏi hệ tiết niệu là một bệnh thường gặp và còn rất phức tạpvề nguyên nhân, cơ chế sinh bệnh. Do đó việc phòng bệnh còn rất hạn chế – mà các phương pháp điều trị hiện nay cũng chỉ là giải  quyết cái ngọn. Về mặt điều trị ngoại khoa, có rất nhiều  phương pháp. áp dụng phương pháp nào là căn cứ vào chỉ định cụ thể của từng loại sỏi ở từng vị trí cơ quan niệu và trên từng cơ thể người bệnh. Phương pháp đó còn tùy thuộc vào trang thiết bị, trình độ kỹ thuật và khả năng của từng cơ sở mà thực hiện.

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook