Chlamydia là một loại vi sinh vật trung gian giữa vi khuẩn và virus. Sở dĩ có hiện tượng này bởi hệ thống gen di truyền của Chlamydia có thể xếp vào nhóm virus, cũng có thể xếp vào nhóm vi khuẩn. Đây là một căn bệnh được giới y học Hoa Kỳ khuyến cáo là đứng hàng đầu trong các bệnh nhiễm khuẩn qua đường tình dục trong ba năm gần đây tại quốc gia này. Mỗi năm, ước tính khoảng 4.000.000 người tại Hoa Kỳ bị nhiễm chlamydia. Căn bệnh này ảnh hưởng đến cả nam và nữ và xảy ra ở mọi nhóm tuổi. Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh chlamydia không rõ ràng nên nhiều người bỏ qua dẫn đến những biến chứng rất đáng tiếc.
Vấn đề nhiễm khuẩn do Chlamydia mới được chú ý ở Việt nam trong khoảng vài năm gần đây. Các xét nghiệm khẳng định bệnh cho đến thời điểm vẫn còn phức tạp và đắt tiền, không phải cơ sở y tế nào cũng thực hiện được. Một vài nghiên cứu đưa ra tỷ lệ từ 1-30% các trường hợp đến khám phụ khoa nghi do ra dịch đường âm đạo bất thường.
Nguyên nhân gây bệnh Chlamydia
Vi sinh vật là những sinh vật nhỏ, phải nhìn bằng kính phóng đại lớn như kính hiển vi mới thấy, tồn tại ở nhiều trạng thái. Khi xâm nhập vào cơ thể và biểu hiện bệnh gọi là hiện tượng nhiễm khuẩn. Sắp xếp theo kích thước từ nhỏ đến lớn có ba nhóm vi sinh vật gây bệnh: nhiễm virus (HIV, Herpes…), nhiễm vi khuẩn (giang mai, lậu ….), nhiễm ký sinh trùng (hay còn gọi là sinh vật ký sinh, sống nhờ ví dụ: nấm, trùng roi…). Bệnh nhiễm khuẩn do hai nhóm là vi khuẩn và ký sinh trùng có khả năng điều trị bằng các loại thuốc kháng sinh, còn nhiễm virus thì cho đến nay chưa có thuốc nào đặc trị. Khi điều trị nhiễm virus, thầy thuốc chỉ dám mong muốn hạn chế không cho virus phát triển lan rộng hoặc để bệnh không biểu hiện rầm rộ. Phần còn lại là khắc phục những hậu quả do virus gây ra, chờ cho hết chu kỳ sống của virus thì bệnh sẽ đỡ và coi như đã khỏi. Tuy nhiên rất nhiều bệnh do virus chỉ lắng xuống rồi âm thầm tàn phá cơ thể như HIV, viêm gan B…
Nguyên nhân chính của bệnh Chlamydia vẫn là quan hệ tình dục không an toàn và nạo hút thai.
Triệu chứng bệnh Chlamydia
Triệu chứng bệnh rất mờ nhạt:
– Đi tiểu đau.
– Đau bụng hạ vị.
– Tiết dịch âm đạo ở phụ nữ (ít dịch hơi đục, có thể trắng đục hoặc vàng đục, dịch này không gây mùi khó chịu.)
– Chảy dịch ra từ dương vật ở nam giới.
– Đau khi giao hợp tình dục ở phụ nữ.
– Đau tinh hoàn ở nam giới.
Bệnh không quá khó chịu nên người bệnh thường chủ quan không đi khám. Một số trường hợp có biểu hiện rõ ràng, người bệnh khó chịu phải đi khám gọi là cấp tính. Trong trường hợp này thường có thêm một vài vi sinh vật khác kết hợp cùng gây bệnh, gọi là nhiễm khuẩn phối hợp. Dấu hiệu cấp tính thường do những vi sinh vật phối hợp gây ra.
Rất ít nơi chẩn đoán được Chlamydia vì xét nghiệm đắt và chưa phổ biến. Các thầy thuốc có nghĩ đến cũng không thể chẩn đoán chính xác bệnh vì không có điều kiện xác định bệnh bằng xét nghiệm. Khó khăn do xét nghiệm được tính là nguyên nhân thứ hai tạo điều kiện cho bệnh tồn tại. Nếu không xác định nhiễm khuẩn có nguyên nhân do Chlamydia, quá trình điều trị sẽ chỉ tập trung tiêu diệt các nguyên nhân kết hợp như lậu, tạp khuẩn…. Chlamydia không bị tiêu diệt, vẫn tồn tại và tiếp tục gây bệnh. Các triệu chứng vẫn chỉ là mờ nhạt, làm bệnh nhân và thầy thuốc cho rằng đã loại trừ hết các nguyên nhân gây bệnh. Sự tồn tại kín đáo của Chlamydia làm nguy cơ lây bệnh tăng lên đáng kể, cả người mắc cũ và người mới đều bỏ qua không đi khám, không điều trị.
Biến chứng của bệnh Chlamydia
– Chlamydia gây ra là hiện tượng dính và bí tắc. Rất nhiều trường hợp khi soi ổ bụng chẩn đoán hiếm muộn, thấy tử cung, thấy vòi tử cung (vòi trứng), buồng trứng và các thành phần xung quanh hệ sinh dục nữ bị dính vào nhau bởi các dải xơ mỏng. Thậm chí các tạng ở xa hơn như gan và cơ hoàn cũng dính vào nhau. Khi có những dấu hiệu này, thường vòi tử cung cũng bị tắc. Hiện tượng tắc có thể là do các dải xơ dính làm gấp góc vòi tử cung, có thể bản thân lòng vòi tử cung bị bít lại (bình thường lòng vòi tử cung thông lại và có thai theo đường tự nhiên, thành công ít. Thường có thai phải nhờ tới thụ tinh trong ống nghiệm.
– Gây ra hiện tượng chửa ngoài tử cung vì trứng không thể đi vào buồng tử cung
– Vô sinh có thể coi là một biến chứng nặng nhất của bệnh Chlamydia.
– Viêm mào tinh hoàn (Epididymitis). Nhiễm chlamydia có thể biến chứng epididymis, một ống cuộn nằm bên cạnh mỗi tinh hoàn. Epididymitis có thể gây sốt, đau và sưng bìu
– Viêm tuyến tiền liệt. Các sinh vật chlamydia có thể lây lan đến tuyến tiền liệt. Viêm tuyến tiền liệt có thể gây đau trong hoặc sau khi quan hệ tình dục, sốt và ớn lạnh, đi tiểu đau và đau lưng.
– Viêm trực tràng. Nếu tham gia vào quan hệ tình dục qua đường hậu môn, các sinh vật chlamydia có thể gây ra viêm trực tràng. Điều này có thể dẫn đến đau trực tràng và thải chất nhầy.
– Nhiễm trùng mắt. Chạm vào mắt với bàn tay truyền nhiễm có thể gây ra nhiễm trùng mắt, như viêm kết mạc. Không được điều trị, nhiễm trùng mắt có thể dẫn đến mù loà.
– Nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh. Nhiễm chlamydia có thể truyền từ các kênh âm đạo đến con trong thời gian sinh, gây viêm phổi hoặc nhiễm trùng mắt có thể dẫn đến mù loà.
Thuốc điều trị
Thuốc điều trị Chlamydia hay được dùng trên thị trường thuộc nhóm Tetracylline, azithromycin, doxycycline kháng sinh quen thuộc. Thuốc sử dụng trong 7 – 10 ngày. Trong thời gian điều trị tránh quan hệ tình dục. Khi có thai vẫn có thể điều trị Chlamydia, nhưng không nên sử dụng Tetracyclline. Các thầy thốc sẽ sử dụng thuốc không ảnh hưởng đến thời kỳ mang thai, chi phí điều trị sẽ cao hơn. Một vấn đề cơ bản trong điều trị Chlamydia nói riêng và nhiễm khuẩn sinh dục nói chung là phải điều trị cho cả bạn tình ngay cả khi họ không có biểu hiện gì của bệnh. Nếu không nhiễm trùng có thể thể tái trở lại.
Bác sĩ Bạch Mai
Chưa có bình luận.