Thuốc kháng sinh Invanz họ Ertapenem của hãng MSD là thuốc tiêm điều trị các loại nhiễm khuẩn từ trung bình đến nặng.
Thành phần: Ertapenem.
Trình bày/Đóng gói
Dạng
Invanz Bột pha tiêm 1 g
Trình bày/Đóng gói: 1 g x 1’s
Chỉ định/Công dụng
Điều trị: INVANZ được chỉ định để điều trị cho trẻ em (từ 3 tháng đến 17 tuổi) và người lớn mắc các bệnh nhiễm khuẩn từ trung bình tới nghiêm trọng do các vi khuẩn nhạy cảm với kháng sinh này, cũng như điều trị khởi đầu theo kinh nghiệm trước khi xác định được vi khuẩn gây bệnh trong các bệnh nhiễm khuẩn sau:
– Nhiễm khuẩn ổ bụng có biến chứng
– Nhiễm khuẩn da và tổ chức da có biến chứng, bao gồm nhiễm khuẩn chi dưới và bàn chân do đái tháo đường
– Viêm phổi mắc phải tại cộng đồng
– Nhiễm khuẩn đường tiết niệu có biến chứng bao gồm viêm thận-bể thận
– Nhiễm khuẩn vùng chậu cấp, bao gồm viêm nội mạc-cơ tử cung sau sinh, nạo thai nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn phụ khoa sau mổ
– Nhiễm khuẩn huyết
Dự phòng: INVANZ được chỉ định để dự phòng nhiễm trùng tại chỗ phẫu thuật ở người lớn trong phẫu thuật đại trực tràng theo chương trình mổ phiên.
Liều dùng/Hướng dẫn sử dụng
Liều thường dùng của INVANZ ở bệnh nhân từ 13 tuổi trở lên là 1 g, ngày 1 lần. Liều thường dùng của INVANZ ở bệnh nhi từ 3 tháng đến 12 tuổi là 15 mg/kg, ngày 2 lần (không quá 1 g/ngày).
Có thể truyền tĩnh mạch hoặc tiêm bắp. Nếu dùng đường tĩnh mạch, thời gian truyền tĩnh mạch phải kéo dài trong suốt 30 phút.
Có thể tiêm bắp thay vì truyền tĩnh mạch INVANZ để điều trị các nhiễm khuẩn mà tiêm bắp là thích hợp.
Thời gian điều trị với INVANZ thông thường là 3-14 ngày, nhưng thay đổi tùy theo loại bệnh nhiễm khuẩn, và vi khuẩn gây bệnh (xem Chỉ định). Nếu có chỉ định lâm sàng, có thể chuyển sang kháng sinh đường uống thích hợp khi thấy có cải thiện về lâm sàng.
Trong các nghiên cứu lâm sàng có đối chứng, người bệnh được điều trị từ 3 tới 14 ngày. Thời gian điều trị kéo dài bao lâu là do bác sĩ điều trị quyết định dựa vào vị trí và mức độ nghiêm trọng của nhiễm khuẩn và vào đáp ứng lâm sàng của người bệnh. Trong một số nghiên cứu, bác sĩ quyết định chuyển điều trị sang kháng sinh đường uống sau khi thấy có cải thiện về lâm sàng.
Dự phòng nhiễm trùng tại chỗ ở người lớn sau phẫu thuật đại trực tràng theo chương trình mổ phiên: Để ngăn ngừa nhiễm trùng tại chỗ sau phẫu thuật đại trực tràng theo chương trình ở người lớn, liều khuyến cáo là 1 g truyền tĩnh mạch, dùng liều duy nhất 1 giờ trước khi phẫu thuật.
Với người suy thận: Có thể dùng INVANZ điều trị bệnh nhiễm khuẩn cho người suy thận. Với người bệnh có độ thanh lọc creatinin > 30 mL/phút/1,73m2 thì không cần điều chỉnh liều. Nhưng với người lớn suy thận đang tiến triển (độ thanh lọc creatinin ≤ 30 mL/phút/1,73m2) bao gồm người đang được thẩm phân máu, thì liều mỗi ngày cần là 500 mg. Không có dữ liệu về sử dụng thuốc ở bệnh nhi bị suy thận.
Với người đang được thẩm phân máu: trong một nghiên cứu lâm sàng, sau khi truyền tĩnh mạch một liều duy nhất 1 g ertapenem trước khi thẩm phân, có khoảng 30% liều được tìm thấy trong dịch thẩm phân. Khi dùng INVANZ liều 500 mg/ngày trong vòng 6 giờ trước thẩm phân ở bệnh nhân người lớn, nên bổ sung thêm liều 150 mg sau khi thẩm phân xong. Nhưng nếu đã dùng INVANZ ít nhất 6 giờ trước khi thẩm phân, thì không cần liều bổ sung. Chưa có dữ liệu ở người bệnh lọc máu hoặc thẩm phân màng bụng. Chưa có dữ liệu ở bệnh nhi được thẩm phân máu.
Nếu chỉ có nồng độ creatinin-máu, thì dùng công thức Cockcroft và Gault** để xác định độ thanh lọc creatinin. Khi đó, nồng độ creatinin-máu có thể tương ứng với trạng thái ổn định của chức năng thận:
Nam = [thể trọng (kg) x (140 – tuổi theo năm)] / [(72) x creatinin huyết thanh (mg/100 mL)]
Nữ = 0,85 x giá trị của nam (tính theo công thức trên)
Không cần chỉnh liều với người suy gan (Xem Dược động học, Đặc điểm của người bệnh, Suy gan)
Liều dùng INVANZ không phụ thuộc tuổi (13 tuổi hoặc lớn hơn) hoặc giới tính.
Độ an toàn và hiệu quả của INVANZ ở trẻ dưới 3 tháng tuổi vẫn chưa được thiết lập.
Quá liều
Không có thông tin đặc biệt về điều trị quá liều INVANZ. Hầu như không có trường hợp cố tình dùng quá liều INVANZ. Không thấy có độc tính đáng kể trên người tình nguyện trưởng thành khỏe mạnh tiêm tĩnh mạch mỗi ngày 3 g INVANZ, dùng trong 8 ngày. Trong nghiên cứu lâm sàng ở người lớn, vô tình dùng mỗi ngày tới 3 g không gây ra phản ứng quan trọng trong lâm sàng. Trong các nghiên cứu lâm sàng ở trẻ em, tiêm tĩnh mạch một liều đơn 40 mg/kg đến liều tối đa là 2 g cũng không gây độc tính.
Nếu sử dụng quá liều, cần ngừng INVANZ và điều trị hỗ trợ chung tới khi thuốc đào thải được qua thận.
Có thể thải INVANZ nhờ thẩm phân máu; tuy nhiên, chưa có thông tin về sử dụng thẩm phân máu để điều trị quá liều thuốc này.Chống chỉ định
Quá mẫn với các thành phần của thuốc hoặc với kháng sinh cùng nhóm. Trong tiêm bắp, do sử dụng dung môi Lidocain HCl nên Invanz chống chỉ định với bệnh nhân quá mẫn với thuốc tê nhóm amid và người bệnh bị sốc nghiêm trọng hoặc blốc tim.
Hướng dẫn pha thuốc
Bệnh nhân 13 tuổi hoặc lớn hơn
Chuẩn bị dung dịch truyền tĩnh mạch
KHÔNG TRỘN LẪN HAY TRUYỀN INVANZ CÙNG VỚI CÁC THUỐC KHÁC.
KHÔNG HOÀN NGUYÊN VỚI CÁC DUNG DỊCH CÓ CHỨA DEXTROSE (α-D-GLUCOSE)
CẦN HOÀN NGUYÊN VÀ PHA LOÃNG INVANZ TRƯỚC KHI TIÊM
1. Dùng 10 mL của một trong các dung môi sau, bơm vào lọ INVANZ 1 g để hoàn nguyên: nước pha tiêm, dung dịch tiêm NaCl 0,9%, hoặc nước pha tiêm có chất kiềm khuẩn.
2. Lắc kỹ để hòa tan hết, sau đó chuyển ngay sang lọ chứa 50 mL dung dịch tiêm NaCl 0,9%.
3. Hoàn tất truyền tĩnh mạch trong vòng 6 giờ sau hoàn nguyên.
Chuẩn bị dung dịch tiêm bắp
CẦN HOÀN NGUYÊN INVANZ TRƯỚC KHI TIÊM
1. Hoàn nguyên lọ 1 g INVANZ với 3,2 mL dung dịch tiêm lidocain HCl 1% hoặc 2%*** (không chứa epinephrine). Lắc kỹ lọ để hòa tan hết thuốc.
2. Rút ngay dung dịch vừa pha và tiêm bắp sâu vào nơi có khối cơ lớn (như cơ mông, hoặc phần bên đùi).
3. Nên dùng dung dịch đã pha để tiêm bắp trong vòng 1 giờ sau khi hoàn nguyên.
Chú ý: Tuyệt đối không được truyền tĩnh mạch dung dịch này.
Bệnh nhi từ 3 tháng đến 12 tuổi
Chuẩn bị dung dịch truyền tĩnh mạch
KHÔNG TRỘN LẪN HAY TRUYỀN INVANZ CÙNG VỚI CÁC THUỐC KHÁC
KHÔNG HOÀN NGUYÊN VỚI CÁC DUNG DỊCH CÓ CHỨA DEXTROSE (α-D-GLUCOSE)
CẦN HOÀN NGUYÊN VÀ PHA LOÃNG INVANZ TRƯỚC KHI TIÊM
1. Dùng 10 mL của một trong các dung môi sau bơm vào lọ INVANZ 1 g để hoàn nguyên: nước pha tiêm, dung dịch tiêm NaCl 0,9% hoặc nước pha tiêm có chất kiềm khuẩn.
2. Lắc kỹ để hòa tan hết, sau đó rút một thể tích tương đương với 15 mg/kg thể trọng (không quá 1 g/ngày) hòa vào dung dịch tiêm NaCl 0,9% để đạt được nồng độ cuối cùng là 20 mg/mL hoặc thấp hơn.
3. Hoàn tất truyền tĩnh mạch trong vòng 6 giờ sau khi hoàn nguyên.
Chuẩn bị dung dịch tiêm bắp
CẦN HOÀN NGUYÊN INVANZ TRƯỚC KHI TIÊM
1. Hoàn nguyên lọ 1 g INVANZ với 3,2 mL của dung dịch tiêm lidocain HCl 1% hoặc 2% (không chứa epinephrine). Lắc kỹ lọ để hòa tan hết thuốc.
2. Rút ngay dung dịch vừa pha một thể tích tương đương 15 mg/kg thể trọng (không quá 1 g/ngày) và tiêm bắp sâu vào nơi có khối cơ lớn (như cơ mông hoặc phần bên đùi).
3. Nên dùng dung dịch đã pha để tiêm bắp trong vòng 1 giờ sau khi hoàn nguyên.
Chú ý: Tuyệt đối không được tiêm truyền tĩnh mạch dung dịch này.
Thuốc tiêm cần được kiểm tra kỹ bằng mắt xem có vật lạ hoặc đổi màu trước khi sử dụng. Dung dịch INVANZ là từ không màu tới vàng nhạt. Nếu thay đổi màu trong phạm vi này thì không có ảnh hưởng tới hiệu lực của thuốc.Cảnh báo và thận trọng
Để biết thêm về cảnh báo nguy cơ tiềm ẩn khi sử dụng thuốc Xem thông tin kê toa chi tiết của Invanz
Thận trọng
Phản ứng quá mẫn nghiêm trọng, có khi tử vong (phản vệ) ở người bệnh có tiền sử quá mẫn với penicillin/β-lactam khác. Không khuyến cáo dùng acid valproic/divalproex sodium chung với ertapenem; nếu cần thiết phải dùng Invanz, nên xem xét dùng thêm một liệu pháp chống co giật khác. Cần nghĩ đến viêm ruột kết màng giả khi chẩn đoán người bệnh bị tiêu chảy sau khi dùng thuốc kháng khuẩn. Chỉ dùng trong thai kỳ nếu lợi ích điều trị hơn hẳn nguy cơ có thể xảy ra cho mẹ và cho thai. Thận trọng khi dùng cho bà mẹ đang cho con bú. Không khuyến cáo dùng cho trẻ < 3 tháng tuổi.
Sử dụng ở phụ nữ có thai & cho con bú
Xem thông tin kê toa chi tiết của Invanz
Tác dụng không mong muốn
Nhức đầu, viêm tĩnh mạch/huyết khối, tiêu chảy, buồn nôn, nôn. Ít gặp: chóng mặt, buồn ngủ, mất ngủ, co giật, lú lẫn, hạ HA, thoát mạch, khó thở, nấm Candida miệng, táo bón, ợ chua, tiêu chảy, khô miệng, khó tiêu, chán ăn, ban đỏ, ngứa. Phản vệ, phản ứng dạng phản vệ. Giảm bạch cầu trung tính ở bệnh nhi.
Tương tác
Probenecid. Acid valproic/divalproex sodium.
Bảo quản
Trước khi hoàn nguyên: Bảo quản ở Việt Nam ở nhiệt độ 2oC-8oC.
Dung dịch đã hoàn nguyên để truyền
Sau khi hoàn nguyên, pha loãng ngay dung dịch thuốc với dung dịch tiêm NaCl 0,9% (xem Liều lượng và Cách dùng, Hướng dẫn sử dụng), và có thể sử dụng trong vòng 6 giờ khi bảo quản ở nhiệt độ phòng (25oC) hoặc bảo quản 24 giờ trong tủ lạnh ở nhiệt độ 5oC và dùng trong vòng 4 giờ sau khi lấy ra khỏi tủ lạnh. Không được làm đông đá dung dịch INVANZ.
Dược lực học
Nhóm thuốc: INVANZ (Ertapenem dùng để tiêm) là 1-β methyl-carbapenem vô khuẩn, tổng hợp, có tác dụng kéo dài, dùng đường tiêm và có liên quan về cấu trúc với kháng sinh nhóm beta-lactam, như là penicillin và cephalosporin, có hoạt tính chống lại nhiều vi khuẩn ưa khí và kỵ khí gram dương và gram âm.
Cơ chế tác dụng
Ertapenem có tác dụng in vitro chống lại nhiều vi khuẩn ưa khí và kỵ khí, cả gram dương và gram âm. Tác dụng diệt khuẩn của ertapenem là do ức chế tổng hợp vách tế bào vi khuẩn: ertapenem gắn vào các protein gắn penicillin (PBP). Ở E. coli, ertapenem có ái lực mạnh với các PBP 1a, 1b, 2, 3, 4 và 5, chủ yếu là với PBP2 và PBP3. Ertapenem rất bền vững, không bị thủy phân bởi phần lớn các loại β-lactamase, kể cả các penicillinase, cephalosporinase và các β-lactamase phổ rộng nhưng không chống được metallo-β-lactamase.
INVANZ có hoạt tính chống được hầu hết các chủng của những vi khuẩn sau đây cả in vitro và trong nhiễm khuẩn lâm sàng (xem Chỉ định):
VI KHUẨN GRAM DƯƠNG ƯA KHÍ VÀ KỴ KHÍ KHÔNG BẮT BUỘC:
Staphylococcus aureus – tụ cầu vàng (bao gồm chủng tiết penicillinase)
Streptococcus agalactiae
Streptococcus pneumoniae
Streptococcus pyogenes
Chú thích: Tụ cầu kháng methicillin kháng INVANZ. Nhiều chủng Enterococcus faecalis và hầu hết chủng Enterococcus faecium cũng kháng INVANZ.
VI KHUẨN GRAM ÂM ƯA KHÍ VÀ KỴ KHÍ KHÔNG BẮT BUỘC:
Escheria coli
Haemophilus influenzae (bao gồm chủng tiết β-lactamase)
Klebsiella pneumoniae
Moraxella catarrhalis
Proteus mirabilis
VI KHUẨN KỴ KHÍ
Bacteroides fragilis và các loài khác trong nhóm B. fragilis
Loài Clostridium (trừ C. difficile)
Loài Eubacterium
Loài Peptostreptococcus
Porphyromonas asaccharolytica
Loài Prevotella
Những dữ liệu in vitro sau đây hiện có sẵn, nhưng chưa rõ ý nghĩa lâm sàng.
Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) in vitro của INVANZ là ≤ 1 mcg/mL cho phần lớn (≥ 90%) các chủng của Streptococcus bao gồm Streptococcus pneumoniae, nồng độ ≤ 0,5 mcg/mL chống được phần lớn (≥ 90%) chủng của Haemophilus, ≤ 2 mcg/mL chống được phần lớn (≥ 90%) chủng vi khuẩn ưa khí và kỵ khí không bắt buộc khác và nồng độ ≤ 4 mcg/mL chống được phần lớn (≥ 90%) chủng các vi khuẩn kỵ khí bắt buộc trong danh sách dưới đây; tuy nhiên, hiệu lực và tính an toàn của INVANZ trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn trên lâm sàng do nhiễm các vi khuẩn nêu trên thì chưa chứng minh được trong các nghiên cứu lâm sàng có đối chứng tốt và thích hợp:
VI KHUẨN GRAM DƯƠNG ƯA KHÍ VÀ KỴ KHÍ KHÔNG BẮT BUỘC:
Staphylococcus, coagulase âm tính, nhạy cảm với methicillin.
Streptococcus pneumoniae kháng penicillin
Các Streptococcus viridans.
Chú thích: Tụ cầu kháng methicillin kháng INVANZ. Nhiều chủng Enterococcus faecalis và hầu hết các chủng Enterococcus faecium cũng kháng INVANZ.
VI KHUẨN GRAM ÂM ƯA KHÍ VÀ KỴ KHÍ KHÔNG BẮT BUỘC:
Citrobacter freundii
Enterobacter acrogenes
Enterobacter cloaceae
Escherichia coli tiết ESBL
Haemophilus parainfluenzae
Klebsiella oxytoca
Klebsiella pneumoniae tiết ESBL
Morganella morganii
Proteus vulgaris
Serratia marcescens
Chú thích: Nhiều chủng của các vi khuẩn nêu trên có đa đề kháng với các kháng sinh khác, như các penicillin, cephalasporin (bao gồm thế hệ thứ ba) và các aminoglycosid nhưng nhạy cảm với INVANZ.
VI KHUẨN KỴ KHÍ
Loài Fusobacterium
Xét nghiệm tính nhạy cảm với kháng sinh
Khi có những kết quả in vitro về tính nhạy cảm với kháng sinh của vi khuẩn, nên báo cáo định kỳ cho thầy thuốc, trong đó mô tả đặc tính nhạy cảm của vi khuẩn gây bệnh ở bệnh viện và lây nhiễm ở cộng đồng. Những báo cáo này sẽ giúp thầy thuốc lựa chọn được kháng sinh hiệu quả nhất.
Kỹ thuật pha loãng
Dùng các phương pháp định lượng để xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC). Những trị số MIC này sẽ cung cấp trị số ước tính về tính nhạy cảm của vi khuẩn đối với kháng sinh. MIC được xác định bằng một quy trình chuẩn hóa. Quy trình chuẩn hóa dựa vào phương pháp pha loãng† (canh cấy hoặc thạch) hoặc tương đương với nồng độ chuẩn hóa của chất cấy truyền và nồng độ chuẩn hóa của bột ertapenem. Phân tích các trị số MIC theo các tiêu chí được cung cấp ở Bảng 1.
Kỹ thuật khuếch tán
Những phương pháp định lượng đo đường kính của vòng vô khuẩn cũng cung cấp những trị số ước tính có thể lặp lại về tính nhạy cảm của vi khuẩn đối với các kháng sinh. Một quy trình chuẩn hóa như thế †† đòi hỏi sử dụng những nồng độ chuẩn hóa của chất cấy truyền. Kỹ thuật này dùng những đĩa giấy tròn thấm 10 mcg ertapenem để thử tính nhạy cảm của vi khuẩn đối với ertapenem. Những chỉ tiêu biểu thị sự khuếch tán của thuốc tẩm vào đĩa giấy.
Kỹ thuật kỵ khíMột báo cáo gọi là “Nhạy cảm” nếu tác nhân gây bệnh có thể bị ức chế ở nồng độ kháng sinh thử nghiệm thường đạt được trong máu. Một báo cáo gọi là “Trung gian” nếu kết quả được xem không rõ ràng và nếu vi khuẩn không hoàn toàn nhạy cảm đối với những thuốc khác được xem là nhạy cảm trên lâm sàng, thì cần lặp lại xét nghiệm. Phân loại này cho biết vẫn có thể dùng thuốc trên lâm sàng nếu những vị trí của cơ thể có nồng độ phân bố thuốc cao hoặc trong trường hợp có thể dùng thuốc với liều cao. Phân loại này cũng cung cấp một vùng đệm nhằm ngăn ngừa những yếu tố sai sót kỹ thuật nhỏ có thể gây nên những khác biệt lớn khi phân tích kết quả. Một báo cáo gọi là “Kháng” nếu tác nhân gây bệnh có thể không bị ức chế ở nồng độ kháng sinh thử nghiệm thường đạt được trong máu; do đó cần lựa chọn liệu pháp khác.
Kiểm tra chất lượng
Những quy trình chuẩn hóa thử nghiệm tính nhạy cảm chuẩn hóa cần dùng những chủng vi khuẩn chuẩn đối chứng nhằm kiểm tra những mặt kỹ thuật của quy trình thử nghiệm. Bột ertapenem chuẩn cung cấp các giá trị nồng độ ghi ở bảng 2 dưới đây. Các vi khuẩn chuẩn đối chứng là những chủng vi khuẩn đặc hiệu có những tính chất sinh học nội tại. Những chủng chuẩn đối chứng phải rất ổn định, luôn cho mô hình nhạy cảm có tính chuẩn mực và có tính lặp lại. Những chủng đặc hiệu dùng trong kiểm tra chất lượng xét nghiệm vi sinh học không có ý nghĩa về mặt lâm sàng.
Các nghiên cứu lâm sàng
Người lớn
Ertapenem đã được đánh giá tác dụng điều trị nhiễm khuẩn trong ổ bụng có biến chứng ở người lớn trong một nghiên cứu có đối chứng, mù đôi, đa trung tâm, phân nhóm ngẫu nhiên. Nghiên cứu này so sánh ertapenem (mỗi ngày một lần 1 g truyền tĩnh mạch) với piperacillin/tazobactam (truyền tĩnh mạch 3,375 g mỗi 6 giờ), dùng trong 5-14 ngày trên 665 bệnh nhân. Các bệnh nhân được chia vào hai nhóm: viêm ruột thừa có biến chứng (nhóm 1) và các nhiễm khuẩn ổ bụng có biến chứng khác bao gồm: đại tràng, ruột non, nhiễm khuẩn mật, viêm phúc mạc tổng quát (nhóm 2). Tại thời điểm 1-2 tuần sau thời kỳ điều trị, tỷ lệ thành công về lâm sàng và vi sinh là 89,6% (190/212) với ertapenem và 82,7% (162/196) với piperacillin/tazobactam; sau khi điều trị 4-6 tuần (đánh giá khỏi bệnh), tỷ lệ thành công là 86,7% (176/203) với ertapenem và 81,3% (157/193) với piperacillin/tazobactam.
Ertapenem đã được đánh giá tác dụng điều trị nhiễm khuẩn da và cấu trúc da có biến chứng ở người lớn trong một nghiên cứu có đối chứng, mù đôi, đa trung tâm, phân nhóm ngẫu nhiên. Nghiên cứu này so sánh ertapenem (mỗi ngày truyền tĩnh mạch một lần 1 g) với piperacillin/tazobactam (truyền tĩnh mạch mỗi 6 giờ; mỗi lần 3,375 g) dùng trong 7-14 ngày trên 540 bệnh nhân, bao gồm các bệnh nhân nhiễm khuẩn chi dưới do đái tháo đường, áp-xe sâu mô mềm, nhiễm khuẩn vết thương sau chấn thương, viêm mô tế bào đang dẫn lưu mủ. Tỷ lệ thành công trên lâm sàng vào 10-21 ngày sau thời kỳ điều trị (đánh giá khỏi bệnh) là 82,2% (152/185) với ertapenem và 84,5% (147/174) với piperacillin/tazobactam.
Ertapenem được đánh giá hiệu quả trong điều trị nhiễm trùng bàn chân do đái tháo đường ở người lớn trong một thử nghiệm lâm sàng có đối chứng, mù đôi, đa trung tâm, phân nhóm ngẫu nhiên. Nghiên cứu này so sánh (1 g truyền tĩnh mạch ngày 1 lần) với piperacillin/tazobactam (3,375 g truyền tĩnh mạch mỗi 6 giờ) trên 586 bệnh nhân. Cả 2 phác đồ điều trị đều cho phép chuyển sang liệu pháp amoxicillin/clavulanate đường uống với thời gian điều trị tổng cộng là 5-28 ngày (cả đường tiêm và đường uống). Tỷ lệ thành công trên lâm sàng trong vòng 10 ngày sau trị liệu là 87,4% (180/206) đối với ertapenem và 82,7% (162/196) đối với piperacillin/tazobactam.
Ertapenem được đánh giá hiệu quả trong điều trị viêm phổi mắc phải tại cộng đồng ở người lớn trong một thử nghiệm lâm sàng có đối chứng, mù đôi, đa trung tâm, phân nhóm ngẫu nhiên. Cả hai nghiên cứu so sánh ertapenem (mỗi ngày tiêm một lần 1 g) với ceftriaxone (mỗi ngày tiêm một lần 1 g). Cả hai phác đồ đều cho phép chuyển sang liệu pháp amoxicillin/clavulanate đường uống với thời gian điều trị tổng cộng là 10-14 ngày (cả tiêm và uống). Nghiên cứu được tiến hành trên tổng số 866 bệnh nhân. Tỷ lệ thành công trên lâm sàng (gộp 2 nghiên cứu) vào 7-14 ngày sau thời kỳ điều trị (đánh giá khỏi bệnh) là 92% (335/364) với ertapenem và 91,8% (270/294) với ceftriaxone.
Ertapenem được đánh giá hiệu quả trong điều trị viêm đường tiết niệu có biến chứng, bao gồm viêm thận-bể thận ở người lớn trong hai thử nghiệm lâm sàng có đối chứng, mù đôi, đa trung tâm, phân nhóm ngẫu nhiên. Hai thử nghiệm so sánh ertapenem (mỗi ngày tiêm 1 lần 1 g) với ceftriaxone (mỗi ngày tiêm một lần 1 g). Cả hai phác đồ đều cho phép chuyển sang liệu pháp ciprofloxacin đường uống (500 mg, ngày uống 2 lần) với thời gian điều trị tổng cộng là 10-14 ngày (cả tiêm và uống). Các nghiên cứu tiến hành trên tổng số 850 bệnh nhân. Tỷ lệ thành công về vi sinh học (gộp 2 nghiên cứu) vào 5-9 ngày sau thời kỳ điều trị (đánh giá khỏi bệnh) là 89,5% (229/256) với ertapenem và 91,1% (204/224) với ceftriaxone.
Ertapenem được đánh giá hiệu quả trong điều trị viêm vùng chậu cấp ở người lớn trong một thử nghiệm lâm sàng có đối chứng, mù đôi, đa trung tâm, phân nhóm ngẫu nhiên. Nghiên cứu này so sánh ertapenem (1 g truyền tĩnh mạch, ngày 1 lần) với piperacillin/tazobactam (3,375 g truyền tĩnh mạch mỗi 6 giờ) trong 3-10 ngày trên tổng cộng 412 bệnh nhân bao gồm 350 người nhiễm trùng lúc sinh/ sau khi sinh và 45 người nạo thai nhiễm khuẩn. Tỷ lệ thành công trên lâm sàng vào 2-4 tuần sau thời kỳ điều trị (đánh giá khỏi bệnh) là 93,9% (153/163) với ertapenem và 91,5% (140/153) với piperacillin/tazobactam.
Một thử nghiệm đa trung tâm, mù đôi, phân nhóm ngẫu nhiên đánh giá hiệu quả dự phòng trong phẫu thuật trên 1.002 người lớn, so sánh INVANZ IV (1 g) với cefotetan IV (2 g) tiêm truyền kéo dài 30 phút vào 1 giờ trước khi phẫu thuật đại trực tràng theo chương trình. Tỷ lệ đáp ứng lâm sàng có lợi nói chung vào 4 tuần sau phẫu thuật (tiêu chí chủ yếu đánh giá hiệu quả) là 72,0% cho nhóm bệnh nhân dùng ertapenem (N=338) và 57,2% ở nhóm dùng cefotetan (N=334) (khác biệt 14,8%, [95% CI là 7,5%-21,9%]), cho thấy hiệu quả vượt trội của ertapenem so với thuốc đối chứng trong điều trị dự phòng cho các bệnh nhân phẫu thuật đại trực tràng theo chương trình.
Trẻ em
Ertapenem được đánh giá trong hai thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, mù đôi, phân nhóm ngẫu nhiên trên các bệnh nhi từ 3 tháng đến 17 tuổi. Thử nghiệm đầu tiên kết nạp 404 bệnh nhi, so sánh ertapenem (15 mg/kg truyền tĩnh mạch mỗi 12 giờ trên bệnh nhi từ 3 tháng đến 12 tuổi, và 1 g truyền tĩnh mạch ngày 1 lần cho bệnh nhi từ 13 tuổi đến 17 tuổi) với ceftriaxone (50 mg/kg/ngày truyền tĩnh mạch chia 2 lần trên bệnh nhi từ 3 tháng đến 12 tuổi và 50 mg/kg/ngày truyền tĩnh mạch ngày 1 lần trên bệnh nhi từ 13 tuổi đến 17 tuổi trong điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu có biến chứng, nhiễm khuẩn da và mô mềm hoặc viêm phổi mắc phải tại cộng đồng. Cả hai phác đồ đều cho phép chuyển sang dạng uống amoxicillin/clavulanate với thời gian điều trị tổng cộng 14 ngày (tiêm và uống). Tỉ lệ thành công về vi khuẩn học được đánh giá trong một phân tích dựa trên protocol ở các bệnh nhi nhiễm khuẩn tiết niệu có biến chứng cho thấy là 87,0% (40/46) đối với ertapenem và 90,0% (18/20) đối với ceftriazone. Tỉ lệ thành công trong một phân tích dựa trên protocol ở các bệnh nhi được điều trị nhiễm khuẩn da và mô mềm là 95,5% (64/67) đối với ertapenem và 100% (26/26) đối với ceftriaxone, và ở các bệnh nhân được điều trị viêm phổi mắc phải tại cộng đồng là 96,1% (74/77) đối với ertapenem và 96,4% (27/28) đối với ceftriaxone.
Thử nghiệm thứ hai kết nạp 112 bệnh nhi và so sánh ertapenem (15 mg/kg truyền tĩnh mạch mỗi 12 giờ trên các bệnh nhi từ 3 tháng đến 12 tuổi, và 1 g truyền tĩnh mạch ngày 1 lần trên bệnh nhi từ 13 tuổi đến 17 tuổi) với ticarcillin/clavulanate (50 mg/kg đối với bệnh nhi < 60 kg hoặc 3,0 g đối với bệnh nhi > 60 kg, ngày 4 hoặc 6 lần) trong thời gian 14 ngày trong điều trị nhiễm khuẩn ổ bụng có biến chứng và nhiễm khuẩn vùng chậu cấp. Trên các bệnh nhi được điều trị nhiễm khuẩn ổ bụng có biến chứng (là những bệnh nhi trước đây có lỗ dò hoặc viêm ruột thừa có biến chứng) tỉ lệ thành công trên lâm sàng là 83,7% (36/43) đối với ertapenem và 63,6% (7/11) đối với ticarcillin/clavulanate trong một phân tích dựa trên protocol. Trên các bệnh nhi được điều trị nhiễm khuẩn vùng chậu cấp (hậu phẫu hoặc viêm nội mạc tử cung sản khoa tự phát hoặc phá thai nhiễm trùng) tỉ lệ thành công lâm sàng là 100% (23/23) đối với ertapenem và 100% (4/4) đối với ticarcillin/clavulanate trong một phân tích dựa trên protocol.
Dược động học
Hấp thu: Thuốc tiêm ertapenem pha với dung dịch tiêm lidocain HCI 1% (Dược điển Mỹ) pha trong nước muối không có epinephrine, rất dễ hấp thu sau khi tiêm bắp với liều khuyến cáo 1 g. Sinh khả dụng trung bình khoảng 92%. Sau khi tiêm bắp liều 1 g/ngày, nồng độ đỉnh trung bình trong huyết tương (Cmax) đạt sau khoảng 2 giờ (Tmax).
Nồng độ trung bình của ertapenem trong huyết tương sau 30 phút truyền tĩnh mạch với liều 1 g ở người trẻ tuổi khỏe mạnh (25 đến 45 tuổi) là 155 microgam/mL (Cmax) tại thời điểm 0,5 giờ sau khi truyền (kết thúc truyền), 9 microgam/mL tại thời điểm 12 giờ sau khi truyền, và 1 microgam/mL tại thời điểm 24 giờ sau khi truyền.
Phân phối: Ertapenem gắn kết nhiều với protein huyết tương. Ở người lớn trẻ tuổi khỏe mạnh, mức độ gắn kết protein của ertapenem sẽ giảm khi nồng độ trong huyết tương tăng. Khi nồng độ huyết tương < 100 mcg/mL, thì gắn khoảng 95% nhưng khi nồng độ huyết tương khoảng 300 mcg/mL thì chỉ gắn khoảng 85%.
Đặc điểm của người bệnh
Giới: Nồng độ ertapenem/huyết tương không phụ thuộc giới.
Người cao tuổi: Nồng độ trong huyết tương sau khi truyền tĩnh mạch 1 g và 2 g ertapenem cho người cao tuổi ≥ 65 tuổi là khoảng 39% và 22%, cao hơn một chút so với người lớn trẻ tuổi (< 65 tuổi). Không cần điều chỉnh liều lượng ở người cao tuổi.
Bệnh nhi: Nồng độ huyết tương của ertapenem ở bệnh nhi 13-17 tuổi tương đương với người lớn dùng liều 1 g tiêm truyền tĩnh mạch ngày 1 lần.
Giá trị các thông số động học ở bệnh nhi từ 13-17 tuổi khi dùng liều 20 mg/kg (tối đa 1 g) nhìn chung tương tự ở người lớn trẻ khỏe mạnh. Ba trong số sáu bệnh nhân từ 13-17 tuổi dùng liều ít hơn 1 g. Để ước tính các dữ liệu dược động học khi tất cả các bệnh nhân trong nhóm tuổi này đều dùng liều 1 g, dữ liệu dược động học được điều chỉnh theo liều 1 g, với giả định tuyến tính theo liều dùng. So sánh các kết quả cho thấy các bệnh nhân từ 13-17 tuổi dùng liều 1 g ertapenem ngày 1 lần đạt được các đặc tính dược động tương đương ở người lớn. Tỷ số (nhóm 13-17 tuổi/người lớn) của các giá trị AUC là 0,99, nồng độ ngay khi kết thúc tiêm truyền là 1,20 và nồng độ tại điểm giữa của khoảng cách các liều là 0,84.
Nồng độ huyết tương tại điểm giữa của khoảng cách các liều khi tiêm tĩnh mạch ertapenem liều đơn 15 mg/kg cho bệnh nhi từ 3 tháng đến 12 tuổi thì tương đương với nồng độ huyết tương tại điểm giữa của khoảng cách các liều khi tiêm tĩnh mạch liều 1 g ngày 1 lần ở người lớn (xem Phân bố). Độ thanh thải ertapenem tại huyết tương (mL/phút/kg) ở bệnh nhi từ 3 tháng đến 12 tuổi cao hơn xấp xỉ 2 lần ở người lớn. Khi dùng liều 15 mg/kg, giá trị AUC (gấp đôi đối với chế độ điều trị 2 lần/ngày, nghĩa là 30 mg/kg/ngày) ở bệnh nhi từ 3 tháng đến 12 tuổi thì tương tự giá trị AUC ở người lớn trẻ tuổi khỏe mạnh được truyền tĩnh mạch liều đơn 1 g ertapenem.
Suy gan: Chưa xác định dược động học của ertapenem ở người suy gan. Do thuốc này ít chuyển hóa qua gan, nên động học của thuốc rất có thể không bị ảnh hưởng khi suy gan. Vì vậy, không cần chỉnh liều khi suy gan. Suy thận: Sau khi truyền tĩnh mạch một liều đơn 1 g ở người lớn, AUC ở người suy thận nhẹ (độ thanh lọc creatinin từ 60-90 mL/phút/1,73m2) tương đương với AUC ở người khỏe mạnh (25-82 tuổi). Nhưng ở người suy thận vừa (độ thanh lọc creatinin từ 31-59 mL/phút/1,73m2), AUC tăng khoảng 1,5 lần so với ở người khỏe mạnh. Ở người suy thận tiến triển (độ thanh lọc creatinin từ 5-30 mL/phút/1,73m2), AUC tăng khoảng 2,6 lần so với người khỏe mạnh. Ở người suy thận giai đoạn cuối (độ thanh lọc creatinin < 10 mL/phút/1,73m2), AUC tăng khoảng 2,9 lần so với ở người khỏe mạnh. Sau khi truyền tĩnh mạch một liều 1 g ngay trước khi thẩm phân máu, khoảng 30% liều dùng được tìm thấy trong dịch thẩm phân. Không có dữ liệu ở bệnh nhi bị suy thận.
Chưa có bình luận.