Đông y cho rằng: “ Huyết thuộc âm, có mười chứng can(gan) âm hư: Đau ngực sườn là do can huyết hư; Đau nhức cân(gân) thuộc can huyết hư…
Mắt nhìn không được xa là do can huyết hư và thận thủy chân âm bất túc; Mắt nhìn thấy lờ mờ không rõ thuộc can huyết hư có nhiệt, kiêm thận thủy chân âm kém; Mắt có màng là can nhiệt kiêm thận thủy bất túc; Mất huyết quá nhiều sinh chứng uốn ván là do can huyết hư có nhiệt; Bụng dưới đau lan tỏa tới bộ phận sinh dục, khi ấn vào thì đỡ đau, thuộc quyết âm kinh mạch huyết hư; Mắc chứng thiên đầu thống thuộc can huyết hư. Khi tạng can có nhiệt không điều trị ngay để lâu ắt hại mắt; Mắt choáng váng tối sầm thuộc can huyết hư kiêm thận thủy chân âm bất túc”.
Nguyên nhân sinh bệnh: Chứng can thận âm cùng hư phần nhiều do thận âm bất túc, dẫn đến can âm bất túc. Hoặc do can âm bất túc dẫn đến thận âm hư tổn mà sinh bệnh. Trên lâm sàng thường biểu hiện đầy đủ các chứng trạng âm hư của hai tạng can và thận. Hoặc do bệnh nhân ốm lâu ngày, hoặc lao thương quá độ, hoặc mắc chứng tà bệnh ôn nhiệt làm tổn hao can âm và thận âm mà sinh bệnh.
Triệu chứng lâm sàng: Mắt nhìn mờ, hoặc mắc chứng quáng gà, gân mạch co cứng, tê dại, hay bị chuột rút, móng tay móng chân khô giòn, đau hai mạng sườn, chóng mặt, ù tai, lưng đùi đau mỏi, tóc rụng, răng lung lay, miệng khô họng ráo, cơ thể gầy còm, di tinh, ngũ tâm phiền nhiệt(Tim, lòng bàn tay bàn chân nóng) sốt từng cơn về chiều, hai gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, mất ngủ, nước tiểu đỏ, đại tiện phân khô, chất lưỡi đỏ ít rêu, mạch trầm huyền tế sác.
Cơ chế bệnh: Can chủ tàng huyết, chủ về sơ tiết, thận chứa tinh chủ về phát dục. Về sinh lý can huyết với thận tinh cùng dựa vào nhau để hoạt động. Khi can huyết đầy đủ thì huyết có thể hóa tinh. Khi thận tinh dồi dào thì có thể hóa thành huyết. Cho nên về bệnh lý khi can âm bất túc, thận âm khuy tổn, thường đồng thời xuất hiện các tình huống như: Khi can thận âm khuy tổn, không có khả năng chế ước được can dương, làm can dương thăng phát thái quá nghịch loạn lên trên thì xuất hiện chứng can dương thượng cang mà xuất hiện chứng đau đầu, mắt đỏ, hay cáu giận.
Khi can thận âm cùng khuy tổn dẫn đến phế âm suy, phế mất chức năng thanh nhuận túc giáng, âm hư thì hỏa vượng, hun đốt phế lạc, sinh ra các chứng ho khan, đoản hơi, đờm ít mà dính, miệng ráo họng khô, khản tiếng, ho ra đờm có dính máu, hoặc khạc ra máu. Khi can âm hư thì không giúp được tâm, làm tâm huyết cũng hao tổn, âm hư sinh nội nhiệt quấy rối tâm thần mà sinh ra chứng tâm phiền không ngủ được, khi ngủ hay mê, hay quên, tinh thần bất yên hay sợ hãi. Trong Đông y Thận là đất đai của thủy hỏa, thận là nơi ký gữi nguyên âm, nguyên dương để cùng dựa vào nhau mà tồn tại, cùng chế ước lẫn nhau, nên khi sinh bệnh cũng ảnh hưởng lẫn nhau. khi can thận âm hư thì liên lụy đến dương làm thận dương cũng hư theo làm mất chức năng sưởi ấm không còn chức năng khí hóa mà sinh ra chứng cơ thể lạnh, tay chân lạnh, sắc mặt trắng bợt, lưng đùi đau mỏi, đi tiểu nhiều lần, nước tiểu trong, hai chân và eo lưng phù, hình thành chứng âm dương đều hư.
Phương pháp điều trị:
+ Do can thận âm hư sinh chứng hiếp thống(đau hai mạn sườn) Chứng này thường gặp ở nhưng người do cơ thể vốn hư yếu, phòng lao quá độ làm tinh của can thận cùng hư không hóa thành khí, khí hư không sinh huyết. Triệu chứng: Bệnh nhân đau âm ỉ hai bên mạng sườn, váng đầu hoa mắt, sốt từng cơn về chiều, ra mồ hôi trộm. Điều trị: Tư bổ can thận. Bài thuốc: “Nhất quán tiễn”: bắc sa sâm 16 g, đương qui, kỷ tử, mạch môn, sinh địa đều 12 g, khổ luyện tử(hạt xoan rừng) 8 g. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, tùy chứng trạng của bệnh nhân có thể gia thêm các vị khác cho thích hợp.
+ Do can thận âm hư sinh chứng yêu thống(đau lưng) Phần nhiều do phú bẩm bất túc, hoặc ốm đau lâu ngày cơ thể suy yếu, hoặc phòng lao quá độ, làm tinh huyết hao tổn gân mạch mất sự nuôi dưỡng mà sinh bệnh. Triệu chứng: Lưng và hai đùi đau âm ỉ, hai chân yếu, khi mệt nhọc thì lưng đau tăng, khi nằm nghỉ thì giảm đau, hai mắt hoa, nhìn mọi việc không rõ. Điều trị: Tư bổ can thận. Bài thuốc: “Tả qui hoàn”. thục địa16 g, cẩu kỷ tử, lộc giác giao, hoài sơn, thỏ ty tử, cao qui bản đều 12 g, sơn thù 6 g, ngưu tất 4 g. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày tùy chứng có thể gia thêm vị khác.
+ Do can thận âm hư sinh chứng hư lao. Chứng hư lao trong Đông y rất rộng: Xương tủy, khí huyết, tân dịch, cơ bắp bì phu, trong cơ thể luôn đau nhức, mệt mỏi, hao tổn tinh thần, sức lực mòn mỏi, lo nghĩ, mừng giận thất thường vì tinh huyết hao kiệt. Triệu chứng: Lưng đùi đau ê ẩm, nhức mỏi, choáng váng, tai ù, mắt nhìn không rõ, nhiều tạng phủ khí huyết bị hao tổn. Điều trị: Tư bổ can thận. Bài thuốc: “Đại bổ âm hoàn”. hoàng bá 160 g, qui bản 240 g, tri mẫu 160 g, thục địa 240 g, trư tích tủy(tủy trong cột sống của lợn) 160 g. Cách dùng: Các vị thuốc trên tán bột mịn làm viên hoàn mật mỗi viên 5 gam, ngày uống 3 lần mỗi lần uống 2 viên với nước đun sôi để ấm. Uống liên tục 3 tháng.
+ Do Can thận âm hư sinh chứng chảy máu chân răng(xỉ nhục) Do tổn thương về tình chí hoặc sinh hoạt tình dục quá độ làm can thận âm hư sinh nội nhiệt hun đốt mạch lạc làm huyết đi tràn lan sinh chứng xỉ nhục.Triệu chứng : Chân răng chảy máu có màu đỏ nhạt, răng lung lay, đau. Điều trị: Tư âm giáng hỏa, lương huyết chỉ huyết. Bài thuốc: “Tư thủy thanh can ẩm” Phối hợp với bài “Thiến căn tán”. thiến thảo căn, a giao, sinh địa, hoàng cầm, trắc bá diệp đều 30 g, cam thảo, trạch tả 16 g, thục địa, hắc táo nhân, phục linh đều 12 g, hoài sơn, sài hồ, đương qui 10 g, sơn thù, đan bì, bạch thược 8 g, chi tử 6 g, Cách dùng: tán bột làm viên hoàn nước ngày uống 3 lần mỗi lần uống 15 gam với nước đun sôi để ấm. Nếu làm thuốc sắc thì tùy bệnh chứng mà dùng liều lượng cho thích hợp. Ngày uống một thang.
+ Do can thận âm hư sinh chứng huyễn vựng(choáng váng) Vì thận thủy hư tổn, thủy không hàm được mộc, phong dương quấy nhiễu lên trên, hoặc do can thận âm tinh hao tổn suy nhược không sinh được tủy, làm tủy hải bất túc mà sinh bệnh. Triệu chứng: Bệnh trình kéo dài, người luôn luôn mệt mỏi, choáng váng chỉ thích nằm nhắm mắt thì bệnh đỡ. Điều trị: Tư bổ can thận. Bài thuốc: “Kỷ cúc địa hoàng hoàn”. thục địa 16 g, kỷ tử, trạch tả, hoài sơn, cúc hoa, bạch linh, đan bì đều 12 g, sơn thù 8 gam. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày uống trước khi ăn hoặc lúc đói.
+ Do can thận âm hư Phụ nữ kinh đến trước kỳ. Khi can thận âm hư sinh nội nhiệt bức huyết đi càn, làm tổn thương hai mạch xung nhâm mà sinh bệnh. Triệu chứng: Kinh đến trước kỳ, lượng ít, màu huyết đỏ, hai gò má đỏ, lòng bàn tay bàn chân nóng. Điều trị: Dưỡng âm thanh nhiệt. Bài thuốc: “Lưỡng địa thang”. sinh địa 16 g, bạch thược, địa cốt bì, huyền sâm, a giao đều 12 g, mạch môn 8 g. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày uống lúc đói.
+ Do can thận âm hư sinh chứng bế kinh. Do tiên thiên bất túc, thiên quí không đầy đủ hoặc ốm đau lâu ngày làm tinh huyết của can thận hao tổn mà sinh bệnh. Triệu chứng: Kỳ kinh đến muộn, lượng kinh ít màu huyết nhạt, sau một thời gian dẫn đến bế kinh. Điều trị: Tư bổ can thận dưỡng huyết điều kinh. Bài thuốc: “Qui thận hoàn”. thục địa 26 g, đỗ trọng, hoài sơn, cẩu kỷ tử, thỏ ty tử, phục linh đều 12 g, đương qui, sơn thù 8 gam. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống sau khi ăn.
+ Do can thận âm hư sinh chứng thống kinh. Vì can thận âm hư làm tinh suy huyết tổn, hai mạch xung nhâm rỗng không bào lạc không được nuôi dưỡng mà sinh bệnh. Triệu chứng: Sau khi hành kinh bụng đau âm ỉ không dứt, lượng kinh ít, màu nhạt. Điều trị: Điều bổ can thận dưỡng huyết chỉ thống. Bài thuốc: “Điều can tán”. hoài sơn 20 g, sơn thù, đương qui, ba kích, a giao, bạch thược đều 12 g, chích thảo 4 g. Cách dùng: Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày uống sau khi ăn khi thuốc còn ấm.
TTND.BS cao cấp Nguyễn xuân Hướng.
Nguồn: SKDS
Chưa có bình luận.