Sau mưa lũ, nguồn nước tù đọng, thời tiết nóng ẩm, môi trường mất vệ sinh là điều kiện thuận lợi cho muỗi sinh sôi, phát triển khiến sốt xuất huyết dễ bùng phát thành dịch.
Sau mưa lũ, nguồn nước tù đọng, thời tiết nóng ẩm, môi trường mất vệ sinh là điều kiện thuận lợi cho muỗi sinh sôi, phát triển khiến sốt xuất huyết dễ bùng phát thành dịch. Bệnh diễn biến phức tạp và rất nguy hiểm, người bệnh có thể bị sốc, hạ tiểu cầu và cô đặc máu.
Sốt xuất huyết chưa có vắc-xin dự phòng, y học hiện đại điều trị bằng cách: bù lại sớm khối lượng tuần hoàn, nước, chất điện giải, albumin và máu khi cần thiết và sớm trước khi có sốc.
Theo y học cổ truyền, sốt xuất huyết thuộc ôn dịch thời độc, thấp nhiệt dịch. Nhiệt độc tấn công vào phần ngoài cơ thể (phần vệ, phần khí) gây sốt cao; sau đó xâm nhập vào phần sâu hơn (phần dinh, phần huyết) gây ban chẩn và xuất huyết. Sau đây là một số bài thuốc theo từng giai đoạn bệnh.
Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần vệ, phần khí: người bệnh sốt cao liên tục, lúc đầu hơi sợ lạnh, nhức đầu, đau người, lưỡi đỏ thẫm, rêu lưỡi trắng hoặc vàng mỏng, mạch sác. Sau đó sốt rất cao, mặt đỏ, mắt đỏ, chân tay tê bì, ngực bụng đầy tức, nôn hoặc buồn nôn, đại tiện táo hoặc lỏng, tiểu tiện đỏ sẻn… Phép chữa: thanh giải nhiệt độc. Dùng một trong các bài:
Bài 1: kim ngân hoa, liên kiều, sơn tra, cúc hoa mỗi vị 10g, đường phèn 20 – 30g. Các vị thái nhỏ, hãm với nước sôi 20 – 30 phút. Gạn lấy nước, hòa đường, uống thay nước trong ngày.
Tổn thương xuất huyết trên da.
Bài 2: cam thảo 4 – 8g, hoạt thạch 24 – 48g. Cho thuốc vào túi vải sợi bông, hãm nước sôi 20 – 30 phút. Uống trong ngày 3 – 4 lần.
Bài 3: thạch cao 40g, lá tre tươi 30g, trúc nhự 30g, lô căn 30g, gạo tẻ 100g, đường phèn vừa đủ. Thạch cao sắc trước 15 phút, sau đó cho các thuốc khác vào, sắc lấy nước bỏ bã, cho gạo vào nấu cháo, thêm đường, chia ăn trong ngày.
Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần khí, dinh và huyết: người bệnh sốt cao, đau người, đau đầu, nhức khung mắt, mặt đỏ, lưng chân tay có điểm xuất huyết, chảy máu cam, miệng khát, có khi nôn mửa, có hạch ở nách và bẹn, mạch phù sác hay hồng đại. Phép chữa: thanh nhiệt giải độc, tả hỏa cầm máu. Dùng một trong các bài:
Bài 1: kim ngân hoa 20g, liên kiều 12g, hoàng cầm 12g, rễ cỏ tranh 20g, cỏ nhọ nồi 16g, hoa hòe 16g, chi tử 8g. Nếu khát nước, thêm huyền sâm 12g, sinh địa 12g; sốt cao, thêm tri mẫu 12g. Sắc uống trong ngày.
Bài 2: cam thảo 4g, hoạt thạch 24g, thanh đại 24g. Tán bột uống với nước ấm hoặc cho vào túi, hãm nước sôi 20 – 30 phút cho uống trong ngày.
Sốt xuất huyết do muỗi vằn truyền bệnh.
Chú ý: Nếu đang sốt, đột ngột nhiệt độ hạ thấp, huyết áp tụt, mạch nhanh, người mệt mỏi, vật vã, vã mồ hôi, chất lưỡi đỏ, mạch trầm tế sác (sốc): Nhất thiết phải đưa đến cơ sở y tế điều trị bằng y học hiện đại.
Ngoài ra, kết hợp một số bài thuốc bổ khí, sinh tân dịch:
Bài 1 (khi huyết áp tụt ít): bạch truật 20g, đảng sâm 20g, mạch môn 12g, thục địa 12g. Sắc uống.
Bài 2 (khi huyết áp tụt nhiều): nhân sâm 8g, ngũ vị tử 8g, mẫu lệ nung 20g, phụ tử chế 12g, mạch môn 8g, long cốt 20g, thục địa 10g. Sắc uống.
Giai đoạn phục hồi: người bệnh hết sốt, ban xuất huyết mờ dần, cơ thể mệt mỏi, chán ăn, hoa mắt chóng mặt, lưng gối đau mỏi, ngủ kém, đại tiện lỏng nát… Dùng bài:
Bài 1: Thang ích vị: sa sâm 16g, sinh địa 20g, ngọc trúc 12g, mạch đông 12g. Sắc uống. Dùng khi còn sốt lai rai, họng khô, miệng khát.
Bài 2: Thang chỉ truật: bạch truật 12g, chỉ thực 6g. Sắc uống hoặc tán bột làm viên hoàn. Mỗi lần uống 8g, ngày uống 2 – 3 lần, chiêu với nước cơm. Trị tỳ vị hư nhược, tiêu hoá kém, không muốn ăn uống.
Bài 3: xương dê khoảng 500 – 1.000g, gạo tẻ 100g. Xương dê làm sạch, chặt khúc cùng gạo tẻ nấu cháo, thêm muối, gừng hành, gia vị. Ăn nóng khi đói. Trị xuất huyết dưới da do giảm tiểu cầu, thiếu máu do thiếu dinh dưỡng.
BS. Tiểu Lan
Nguồn: SKDS
Chưa có bình luận.