Thứ Tư, 19/12/2018 | 08:51

Bại não là những rối loạn của hệ thần kinh trung ương xuất hiện trước, trong hoặc sau khi sinh, khiến đứa trẻ có những biểu hiện bất thường về vận động, giác quan, tâm thần và hành vi. Tuy não đã tổn thương không trở lại bình thường được nhưng các biện pháp phục hồi chức năng sẽ giúp trẻ hòa nhập cộng đồ

Trong khoảng 70% trường hợp, bại não có thể là do những bất thường xảy ra trước sinh trong thời kỳ phát triển của bào thai làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của não. Theo báo cáo năm 2003 của Hội Sản và Phụ khoa Hoa Kỳ (American College of Obstetricians and Gynecologists – ACOG)và Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics – AAP) thì thiếu ôxy trong quá trình sinh đẻ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong các trường hợp bại não. Mặc dù nhiều trường hợp người ta chưa thể xác định được căn nguyên nhưng các nguyên nhân đã được biết của bại não bao gồm:

1, Nguyên nhân trước sinh

– Nhiễm trùng trong thai kỳ

Các nhiễm trùng ở phụ nữ có thai như nhiễm rubella (sởi Đức), cytomegalovirus và toxoplasmosis có thể gây tổn thương não của bàothai và gây bại não sau này.

Các nhiễm trùng khác như nhiễm trùng ối, nhiễm trùng hệ tiết niệu – sinh dục của người mẹ cũng có thể gây nên sinh non, một nguy cơ khác của bại não.

– Thiếu oxy não bào thai

Khi chức năng của nhau thai bị giảm sút (suy nhau thai) hoặc bị bóc tách khỏi thành tử cung trước khi sinh (nhau bong non) hoặc do chảy máu do bám sai lệch vị trí (nhau tiền đạo) có thể làm giảm lượng ôxy cung cấp cho thai nhi.

– Các bất thường bẩm sinh khác

Các trẻ có bất thường cấu trúc hệ thần kinh, nhiều bệnh di truyền khác cũng làm tăng nguy cơ bại não.

– Mẹ bị bệnh: đái tháo đường, nhiễm độc thai nghén.

– Di truyền: yếu tố gia đình.

– Vô căn: 30% trẻ bại não không tìm thấy nguyên nhân.

Nguyên nhân trong khi sinh

– Sinh non

Sinh non là trẻ sinh ra trước 37 tuần thai tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt cuối cùng trước khi có thai. Những trẻ sinh non đặc biệt trước 32 tuần và nhất là trước 28 tuần thai có nguy cơ bại não rất cao. Một nghiên cứu cho thấy những trẻ sinh non có cân nặng lúc sinh thấp hơn 1500 gram có nguy cơ bại não cao gấp 30 lần so với trẻ sinh đủ tháng (trẻ sinh từ 37 đến 42 tuần thai). Lý do là trẻ sinh non có nguy cơ rất cao bị xuất huyết não gây tổn thương các tổ chức mong manh đang phát triển của não hoặc gây nên chứng nhuyễn hóa chất trắng quanh não thất.

– Ngạt trong quá trình chuyển dạ và sinh nở

Cho mãi đến gần đây người ta vẫn còn tin tưởng rộng rãi là ngạt (thiếu ôxy) trong quá trình chuyển dạ và sinh nở là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp bại não. Tuy nhiên như trên đã nói, theo nghiên cứu của Hội Sản và Phụ khoa Hoa Kỳ và Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ thì ngạt chỉ chiếm 10% trong tổng số các bệnh nhân bại não.

– Sang chấn sản khoa

Nguyên nhân sau sinh

– Các bệnh máu

Bất đồng nhóm máu Rh là sự bất tương hợp nhóm máu giữa mẹ và bào thai gây nên vàng da trầm trọng và tổn thương não dẫn đến bại não. Bệnh này thường gặp ở người da trắng còn ở Việt Nam rất hiếm gặp vì tỷ lệ mang Rh (-) hiếm gặp. Tuy nhiên ở Việt Nam có thể gặp bất đồng nhóm máu ABO giữa mẹ và thai nhi.

Một bệnh khác rất nặng nề mặc dù biện pháp phòng ngừa cực kỳ đơn giản là xuất huyết não do thiếu Vitamin K ở trẻ sơ sinh và nhũ nhi cũng gây nên bại não. Các bệnh rối loạn chức năng đông máu khác cũng có thể là nguyên nhân của bại não vì làm tăng nguy cơ chảy máu trong não.

– Vàng da nhân

Vàng da trẻ sơ sinh là do sự tích tụ trong máu một loại sắc tố có tên billirubin do tốc độ phá hủy hồng cầu cao và chức năng gan chưa trưởng thành ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ đẻ non. Trong trường hợp nặng, sắc tố này có thể vượt qua hàng rào mạch máu – não và lắng đọng chủ yếu ở các nhân nền của não (do đó có tên là vàng da nhân) và làm tổn thương các cấu trúc này đưa đến thể bại não kèm múa vờn.

2, Kỹ thuật chẩn đoán bại não

Các bác sĩ sẽ khám lâm sàng và kiểm tra các cử động của con bạn. Bác sĩ cũng có thể yêu cầu thực hiện một số xét nghiệm để bác sĩ xác định bệnh, bao gồm cả chụp cắt lớp CT và chụp cộng hưởng từ MRI não, siêu âm và xét nghiệm đo dẫn truyền thần kinh.

3,Phân loại bại não

Ảnh minh họa.Nguồn Internet

Bại não được chia thành 3 thể lâm sàng chính. Tuy nhiên trên một trẻ bại não có thể có nhiều hơn một thể bệnh kết hợp với nhau nên có thể thứ tư là thể phối hợp.

Bại não thể liệt cứng (spastic cerebral palsy)

Có khoảng 70 đến 80% bệnh nhân bại não thuộc nhóm này. Trẻ mắc thể này có biểu hiện các cơ co cứng, luôn ở trạng thái tăng trương lực cơ. Chính do tình trạng này mà sự vận động của bệnh nhân bại não rất khó khăn. Trẻ khó cầm nắm, bò hoặc đi. Thể lâm sàng này lại được chia làm ba phân nhóm nhỏ:

– Liệt cứng hai chi dưới (spastic diplegia):

Trẻ có bất thường co cứng rõ ở hai chi dưới. Do các cơ khép co cứng nên chân trẻ luôn bị kéo vào trong làm cho trẻ có dáng đi bắt chéo hai chân rất đặc trưng.

– Liệt cứng nửa người (spastic hemiplegia):

Thường có biểu hiện liệt cứng một bên (phải hoặc trái). Thường thì chi trên bị ảnh hưởng nặng hơn chi dưới.

– Liệt cứng tứ chi (spastic quadriplegia):

Bệnh nhân thuộc nhóm này có biểu hiện liệt cứng cả hai chi trên và hai chi dưới cùng với các cơ trục thân. Cả các cơ ở mặt cũng bị ảnh hưởng làm cho trẻ bị tàn phế rất nặng.

Bại não thể múa vờn hay loạn động (athetoid hay dyskinetic cerebral palsy)

Có khoảng 10 đến 20% bệnh nhân bại não thuộc vào nhóm này. Đây là thể bệnh được đặc trưng bằng sự thay đổi thất thường của trương lực cơ (lúc tăng, lúc giảm). Trẻ thường có các động tác bất thường không kiểm soát được. Các động tác này có nhịp điệu chậm, biên độ đôi khi rộng nhưng đang múa nhưng trẻ không ý thức được điều này.

Do bất thường trong kiểm soát cử động như vậy nên bệnh nhân khó có tư thế ngồi hoặc dáng đi bình thường. Ngoài ra các cơ ở mặt và lưỡi cũng bị ảnh hưởng nên trẻ khó bú (với trẻ còn bú) hoặc khó nuốt, khó nói.

Bại não thể thất điều (ataxic cerebral palsy)

Khoảng 5 đến 10% bệnh nhân bại não thuộc thể lâm sàng này. Bệnh ảnh hưởng chủ yếu đến cân bằng tư thế và phối hợp động tác. Do có rối loạn trong kiểm soát tư thế nên dáng đi của trẻ hay lảo đảo, vùng thắt lưng hay đong đưa. Do rối loạn khả năng phối hợp động tác nên trẻ rất khó thực hiện được các động tác đòi hỏi sự nhịp nhàng như vỗ tay theo nhịp hoặc đòi hỏi độ chính xác như viết.

Bại não thể phối hợp (Mixed cerebral palsy)

Trẻ bị thể phối hợp có thể bị phối hợp hai hoặc cả ba thể bại não trên, thường gặp phối hợp thể co cứng với thể múa vờn, những trường hợp này thường bị tàn tật nặng nề.

Cách điều trị bệnh bại não co cứng

Các triệu chứng và các khuyết tật có thể được giảm bớt bằng phương pháp vật lý trị liệu (PT), trị liệu vận động (OT), tư vấn tâm lý và phẫu thuật. Vật lý trị liệu giúp trẻ em phát triển cơ bắp khỏe mạnh hơn và có thể thực hiện các động tác như đi bộ, ngồi, và giữ thăng bằng.

Với trị liệu vận động, trẻ sẽ phát triển được các kỹ năng vận động, chẳng hạn như bé biết tự mặc quần áo, tự xúc và ăn thức ăn và tập viết. Trị liệu ngôn ngữ sẽ giúp trẻ học được kỹ năng nói. Gia đình nên đưa trẻ đến các trường học đặc biệt hoặc các dịch vụ xã hội được thiết kế đặc biệt dành riêng cho trẻ bại não để trẻ phát triển và điều trị tốt hơn. Tuy nhiên bệnh bại não co cứng không thể chữa khỏi hoàn toàn.

Yhocvn.net

Chưa có bình luận.

Tin khác
Chúng tôi trên Facebook