Cây trà (Camellia sinensis), chi trà (Camellia) họ trà (Theaceae) là loại được sử dụng rộng rãi nhất trong 120 loài thuộc chi (Camellia). Ngày nay, cây trà được tìm thấy rộng rãi ở các vùng ôn đới, cận nhiệt đới và nhiệt đới như: Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam…
Cây trà có thể có nguồn gốc từ Trung Quốc, bởi theo tài liệu cổ Trung Quốc thì nguồn gốc lịch sử của trà được gắn liền với những truyền thuyết huyền thoại. Một trong những truyền thuyết đó là sự việc Thần Nông (một vị Hoàng đế huyền thoại ở Trung Quốc) đã uống trà lần đầu tiên vào năm 2737 TCN. Khi những chiếc lá khô của bụi cây trà vô tình rơi xuống một nồi nước sôi, biến nước thành màu nâu nhạt và nó đã thành đồ uống giải khát. Vào thế kỷ thứ IX, các văn bản Trung Quốc liên tục đề cập đến trà và trong vài trăm năm sau đó trà đã trở thành đồ uống quốc dân. Trà được lan truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản vào thế kỷ XII bởi các nhà sư Phật giáo. Trà được những thương nhân người Bồ Đào Nha đưa đến châu Âu lần đầu tiên vào những năm 1600. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, việc sử dụng trà đã tiến triển vượt ra ngoài sự giải khát thông thường mà còn là một loại hình văn hóa nghệ thuật trà đạo.
Người ta thường dùng lá non và búp trà để làm đồ uống. Từ lá trà có thể chế biến thành các loại trà: trà xanh (lá trà sấy khô), trà đen (trà lên men), trà ô long (trà lên men một phần), trà trắng (búp trà sấy khô). Các phương pháp chế biến trà khác nhau tạo ra các loại trà có thành phần hóa học khác nhau; do đó, hương vị và dược tính cũng khác nhau.
Trong đó, trà xanh được sử dụng chủ yếu trong y học cổ truyền phương Đông trong nhiều thế kỷ. Trà từ lâu đã được đánh giá là chất giúp kích thích sự tỉnh táo (trà xanh có chứa caffeine và theophylline – những chất này có nhiều nhất trong trà đen, làm tăng hoạt động của sóng não alpha), thuốc giúp lợi tiểu, chất làm săn se để kiểm soát sự chảy máu giúp làm lành vết thương và là dược liệu dùng để cải thiện sức khỏe tim mạch. Có rất nhiều lợi ích về sức khỏe khi uống trà, mặc dù trà đen và trà xanh đều có nguồn gốc từ cây trà, nhưng hầu hết các nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học hiện nay đều nói đến trà xanh. Kết quả từ nghiên cứu trong ống nghiệm, trên động vật thực nghiệm và trên lâm sàng cho thấy, trà xanh có thể giúp ngăn ngừa bệnh mạch vành, làm giảm cholesterol, điều hòa huyết áp và có thể ngăn ngừa bệnh tiểu đường bằng cách điều hòa lượng đường trong máu. Trà xanh có hàm lượng lớn các chất chống ôxy hóa mạnh (chủ yếu là polyphenols) có thể làm giảm chứng viêm, chống lão hóa, thúc đẩy việc giảm cân, tăng miễn dịch, ức chế sự phát triển của nhiều loại ung thư. Những người thường xuyên uống trà xanh có thể có tỷ lệ mắc một số bệnh ung thư như: ung thư vú, ung thư đại trực tràng… thấp hơn bình thường.
Mỗi ngày uống 4 – 6 ly trà xanh sẽ giúp giảm cân và phòng chống ung thư, tim mạch. Không nên uống trà vào buổi tối để tránh mất ngủ, bồn chồn do caffeine và theophylline trong trà gây ra. Việc cho thêm sữa vào trà có thể làm giảm sự hấp thu các polyphenol, giảm tính chống ôxy hóa của trà.
Trà nóng thường được dùng sau bữa sáng, bữa trưa và thường dùng với món tráng miệng. Trà lạnh (trà đá) dùng trong bữa ăn trưa có thể thay thế cho soda lạnh, điều này đã trở thành một hiện tượng tiêu dùng được cả thế giới ưa thích.
Tiến sĩ – Lương y Phùng Tuấn Giang (Chủ tịch Viện Nghiên cứu phát triển y dược cổ truyền Việt Nam)
Nguồn: SKĐS
Khí hậu miền Bắc mang nét đặc trưng của 4 mùa xuân hạ, thu đông.…
Viêm gan B là một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây ảnh hưởng nghiêm…
Cây hoa nhài được sử dụng để hỗ trợ, điều trị một số bệnh nhưng…
Gan nhiễm mỡ là căn bệnh gây ra bởi sự tích tụ quá nhiều chất…
Trong tốp các môn thể thao hàng đầu có tác dụng hỗ trợ giảm mỡ…
Để giảm nguy cơ gan nhiễm mỡ, song song với việc đảm bảo chế độ…