Mắt

Nỗi lo đục thủy tinh thể

Nguyên nhân, nguy cơ gây bệnh đục thủy tinh thể

“Sinh- bệnh-lão- tử” dẫu biết là không bao giờ tránh được thế nhưng con người với trí tuệ, suy nghĩ và ước mơ của mình luôn tìm cách chống lại những gì gọi là “thiên cưỡng”. Ước mơ trường thọ có người tiên đóan là năm 2020 sẽ có bí kíp để thành hiện thực. Trong khi chúng ta chờ tới ngày đó thì sống thọ, sống có chất lượng vẫn ao ước của bao nhiêu người già. Khoa học mà cụ thể là y khoa hiện đại đã giúp cho người cao tuổi giải quyết được rất nhiều phiền toái của lão hóa. Chống chọi có hiệu quả với hai hung thần: bệnh tim mạch và ung thư, giúp người cao tuổi có trí tuệ minh mẫn hơn, tai nghe rõ hơn, bớt đau xương khớp và đi lại dễ dàng hơn… đó là tất cả những minh chứng cho thành công của công cuộc chống lão hóa, duy trì chất lượng sống. Trên hết vẫn là thành tựu ngoạn mục của ngành nhãn khoa trong công cuộc chống mù lòa do bệnh đục thể thủy tinh gây ra. Rất nhiều người đã có đôi mắt tinh tường như tuổi 30 sau phẫu thuật đục thể thủy tinh, chuyện như đùa…mà có thật.

Bệnh đục thuỷ tinh thể khởi phát như thế nào?

Ở tuổi 45 chúng ta tạm hài lòng với đôi kính đọc sách. Đến tuổi 60 rất nhiều người cần thêm một đôi kính nhìn xa nữa. Có vẻ phiền phức hơn nhiều. Nhưng không lâu sau đó việc đeo kính không còn tác dụng nữa. Sức nhìn ngày cà ng giảm sút. Đục thể thuỷ tinh bắt đầu quấy rầy chúng ta rồi đấy.

Chúng ta cảm thấy gì khi bị đục thuỷ tinh thể?

Giảm thị lực là triệu chứng quan trọng và hay gặp nhất. Thường là nhìn mờ cả hai bên khá cân xứng. Đục thể thuỷ tinh gây ảnh hưởng đến việc nhìn xa trước tiên sau đó là đến nhìn gần, trừ một thể đục đặc biệt là đục dưới bao sau thể thuỷ tinh. Khi đó thị lực nhìn gần bị ảnh hưởng trước tiên. Mức độ giảm thị lực cũng rất khác biệt, từ mức còn một vài phần mười đến mức chỉ còn nhận biết được ánh sáng.

Đục thể thuỷ tinh làm tăng độ tụ của nó. Điều này giải thích tại sao một số người già tự nhiên lại đọc được sách mà không cần kính khi họ bị đục thể thuỷ tinh. Một số bệnh nhân khác than phiền vì cảm giác nhìn đôi, nhìn thấy nhiều vật cùng một lúc, nhìn như qua sương mù …tất cả những khó chịu đó được giải thích là do thể thuỷ tinh bị đục đã làm tán xạ các tia sáng đi qua nó.

Thế nào là đục thể thuỷ tinh?

Thể thuỷ tinh là một thấu kính trong suốt ở bên trong con mắt. Nó góp 1/3 vào năng lực hội tụ của nhãn cầu. Công suất hội tụ của thể thuỷ tinh được đảm bảo khi nó còn trong suốt, các mặt cong và độ dầy còn nằm trong giới hạn sinh lý. Ngoài ra thể thuỷ tinh còn có chức năng lọc tia tử ngoại – tia có hại có trong phổ bức xạ của mặt trời. Khi các phân tử prôtêin không hoà tan bị tích tụ trong thể thuỷ tinh cùng với tuổi tác thì tính trong suốt của nó không còn nữa, các tia sáng khi đi qua vùng bị đục sẽ bị tán xạ mạnh gây giảm thị lực. Đục thể thuỷ tinh được coi là đáng kể khi nó làm giảm thị lực của mắt xuống còn < 3/10.

Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây đục thuỷ tinh thể?

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra đục thể thuỷ tinh thế nhưng đục thể thuỷ tinh do tuổi già chiếm tới 99%. Đục thể thuỷ tinh liên quan đến tuổi già khi nó xuất hiện sau tuổi 65. Có rất nhiều yếu tố nguy cơ trong đó yếu tố tuổi tác được quan tâm nhiều nhất. Ngay sau nó là hàng loạt nguyên nhân khả dĩ: các rối loạn chuyển hóa bẩm sinh và mắc phải, rối loạn dinh dưỡng, ỉa chảy mất nước, tiểu đường. Hút thuốc, uống rượu, cũng như việc lạm dụng một vài loại thuốc là nguyên nhân được nhiều người biết đến. Nhiễm độc các gốc tự do, thiếu hụt các yếu tố chống oxi hóa, phơi nhiễm quá đáng với tia tử ngoại(tia UV) là những luận thuyết mới nhất để chúng ta thêm lo lắng và cố gắng đề phòng đục thể thủy tinh. Các yếu tố đan xen khác như di truyền, môi trường sống, chế độ dinh dưỡng, nghề nghiệp… được coi là đã gây nên sự khác biệt về độ mẫn cảm với đục thể thuỷ tinh giữa cá thể này với cá thể kia.

Các bác sĩ sẽ thấy gì ?

Giảm thị lực đặc biệt là thị lực nhìn xa là điều chắc chắn sẽ gặp

Thăm khám kỹ càng hơn sẽ thấy nhiều bệnh nhân có  rối loạn về sắc giác, nhất là việc nhìn nhận màu xanh. Bên cạnh đó, thị trường, khả năng nhận định độ tương phản, khả năng nhìn ban đêm …cũng có những tổn hại nhất định.

Khám bệnh khi đồng tử giãn tối đa giúp các bác sĩ dễ dàng khẳng định chẩn đoán, đánh giá mức độ và tình trạng đục thể thuỷ tinh. Đục do tuổi già thường là đục vỏ, nhân và dưới bao trong đó dạng đục vỏ là phổ biến nhất. Bên cạnh việc quan sát thể thuỷ tinh thày thuốc nhãn khoa còn chú ý phát hiện thêm các bệnh phối hợp: glôcôm, thoái hoá hoàng điểm do tuổi già, bệnh võng mạc đái tháo đường,  các dạng thoái hoá giác mạc. Tốc độ đục thể thuỷ tinh rất thay đổi, đục hoàn toàn hay đục chín là cấp độ cao nhất. Đục quá chín có thể gây phản ứng viêm màng bồ đào hay tăng nhãn áp.

Điều trị bệnh đục thuỷ tinh thể ra sao?

Cho đến nay phương pháp điều trị có hiệu quả duy nhất vẫn là phẫu thuật. Phẫu thuật thể thuỷ tinh đã có chừng hai thế kỷ nay, nhưng phương pháp đặt kính nội nhãn (thể thuỷ tinh nhân tạo) mới chỉ có từ năm 1949. Sau này, về phương diện vật liệu học, thể thuỷ tinh nhân tạo đã dần dần được cải biên sao cho dung nạp tốt, bền vững, lọc được tia tử ngoại, ưa nước. Ngày nay, loại chế từ silicone, gấp được và chịu nước, được đa số các phẫu thuật viên ưa dùng.

Lĩnh vực phẫu thuật này được ứng dụng sôi nổi nhất những thành tựu mới của ngành nhãn khoa thế giới. Hàng loạt các kỹ thuật mổ mới đi kèm với nó là các máy móc, phương tiện, vật tư tiêu hao ra đời trong vòng 20 năm trở lại đây. Đến giờ phút này, tại các trung tâm nhãn khoa lớn của nước ta, kỹ thuật mổ PHACO đã trở thành phổ biến. Ưu điểm của nó đã quá rõ ràng: vết mổ nhỏ. Đặc biệt trong kỹ thuật PHACO lạnh chỉ còn là 2mm, thị lực phục hồi nhanh chóng, xuất viện trong ngày, tỷ lệ biến chứng ít. Chính vì vậy số lượng bệnh nhân được mổ đục thể thuỷ tinh theo phương pháp này ngày càng tăng. Tất nhiên cũng cần nhắc tới một vài yếu tố khác như tuổi thọ tăng và chỉ định mổ đã rộng rãi hơn nhiều so với trước. Hàng năm tại Pháp có tới 380.000 người được mổ thể thuỷ tinh.

Những ai sẽ được mổ và cần chuẩn bị những gì? 

Chỉ định mổ chủ yếu dựa vào mức độ giảm thị lực. Nhưng cần xác định rõ ràng chính đục thể thuỷ tinh là nguyên nhân chính gây giảm thị lực chứ không phải là những yếu tố bệnh lý khác. Khi khám bệnh các bác sĩ sẽ phải luôn cân nhắc có sự tương hợp hay không giữa tính chất và mức độ đục thể thuỷ tinh với mức độ giảm thị lực. Tựu trung, thị lực kém hơn 4/10 sẽ được xem xét để chỉ định phẫu thuật. Cũng cần quan tâm đến những yếu tố khác như tuổi của người bệnh, tính chất công việc, điều kiện sống, nhu cầu dùng mắt hàng ngày …để thúc đẩy hay trì hoãn can thiệp phẫu thuật.

Một bệnh nhân trước khi phẫu thuật, ngoài việc được thăm khám về chuyên khoa mắt kỹ càng, còn được truy tìm bệnh toàn thân. Điều này rất cần thiết cho quyết định mổ, tiên lượng thị lực sau mổ, ngăn ngừa các biến chứng cũng như điều trị dự phòng. Tại mắt chúng ta sẽ đi tìm những bệnh có liên quan đến tuổi tác như thoái hoá hoàng điểm người già, bệnh võng mạc tiểu đường, cận thị …Trên toàn thân chúng ta cần phát hiện các bệnh nội khoa  như: cao huyết áp, tiểu đường, các ổ viêm nhiễm. Điều này giải thích tại sao trước khi mổ chúng ta lại cầm trong tay tới 7-8 tờ xét nghiệm.

Kết quả của phẫu thuật và biến chứng có thể gặp 

Nếu không có các bệnh tại mắt khác thì có khoảng 95% bệnh nhân thu được thị lực >5/10. Ngoài việc thị lực được cải thiện, còn có những lợi ích đáng kể khác cho bệnh nhân: cải thiện khả năng nhận biết màu sắc, tăng khả năng đọc và nhìn gần, tăng khả năng lao động, di chuyển và lái xe. Các biến chứng viêm nhiễm thường nhẹ và kiểm soát được. Đáng ngại nhất là biến chứng xuất huyết nội nhãn và viêm nội nhãn, tuy không gặp nhiều. Biến chứng muộn đục bao sau mắt phải giải quyết bằng laser YAG dần dần đã trở thành phổ biến cùng với số lượng đông đảo bệnh nhân được mổ đặt thể thuỷ tinh nhân tạo.

Những  điều cần làm để phòng chống bệnh đục thể thủy tinh?

Một nếp sống hợp vệ sinh, dinh dưỡng đủ chất, tránh những điều kiện bất lợi cho mắt: không hút thuốc, không nghiện rượu, tránh phơi nắng nhiều, tránh chấn thương mắt… luôn hữu ích cho đôi mắt của người cao tuổi. Chúng ta có thể dùng thêm hàng ngày một loại bổ tổng hợp có chứa các vitamine và khóang chất vừa tốt cho tim mạch, vừa tốt cho mắt: vitamine A-C-E-B2, kẽm , selene. Một số loại thuốc có ghi tác dụng chữa đục thể thủy tinh nhưng rất có thể nó sẽ chẳng có tác dụng trên với một số người nào đó vì chúng được sản xuất theo một giả thuyết bệnh sinh trong khi đục thể thủy tinh không chỉ có một cơ chế bệnh sinh mà là rất nhiều cái đan xen lẫn nhau.

Ths. Bs. Hoàng Cương

BÀI CÙNG CHỦ ĐỀ:

+ Hiện tượng ruồi bay sau khi mổ đục thuỷ tinh thể

+ Chuyên gia cảnh báo nguy cơ đục thủy tinh thể suốt đời do lạm dụng corticoid

+ Những dấu hiệu nhận biết đục thủy tinh thể chớ nên coi thường

+ Mắt vẫn mờ sau khi mổ đục thuỷ tinh thể

adminyhoc

Recent Posts

Những điều cần lưu ý khi dùng cây hoa nhài trị bệnh

Cây hoa nhài được sử dụng để hỗ trợ, điều trị một số bệnh nhưng…

2 days ago

Bóng chuyền môn thể thao giảm gan nhiễm mỡ hiệu quả

Gan nhiễm mỡ là căn bệnh gây ra bởi sự tích tụ quá nhiều chất…

2 days ago

Bơi giải pháp điều trị gan nhiễm mỡ an toàn và hiệu quả

Trong tốp các môn thể thao hàng đầu có tác dụng hỗ trợ giảm mỡ…

4 days ago

Đạp xe thường xuyên giảm nguy cơ gan nhiễm mỡ

Để giảm nguy cơ gan nhiễm mỡ, song song với việc đảm bảo chế độ…

1 week ago

Căng thẳng và sức khỏe đường tiêu hóa có liên quan như thế nào?

Bạn có biết có một mối liên hệ phức tạp giữa ruột và căng thẳng…

1 week ago

Sức khỏe đường ruột, mức năng lượng tối ưu với chúng ta

Khi cảm thấy kiệt sức và thiếu năng lượng là mối quan tâm phổ biến…

1 week ago