Ung thư

Ung thư: Cách dùng thuốc giảm đau có thuốc phiện nhẹ, thuốc phiện mạnh

Thuốc giảm đau có thuốc phiện nhẹ

Các loại thuốc có thuốc phiện nhẹ quan trọng nhất là Codein và dextropropoxyphen Codein được ưa dùng hơn nhưng dextropropoxyphen là một thuốc thay thế hữu ích. Các thuốc này dùng chủ yếu qua đường uống. Táo bón là tác dụng chính và có thể phòng ngừa được bằng thuốc tẩy nhuận tràng (ví dụ từ cây phan tả diệp). Có thể gặp buồn nôn ít khi phải đặt thành vấn đề sử trí khi sử dụng loại này để chống đau.

Codein:

Liều uống 30mg codein có tác dụng chống đau gần bằng 650mg aspirin. Khi phổi hợp hai loại thuốc này với nhau thì tác dụng chống đau tương đương hoặc vượt hơn tác dụng của 60mg Codein. Tất nhiên Codein có thể được dùng đơn độc. Liều uống gợi ý (Photphat codein phối hợp với aspirin hoặc (paracetamol): 30 – 130mg codein với 500mg paracetamol hoặc 250 – 500mg aspirin, cứ 4 – 6giờ 1 lần.

Dextropropoxyphen:

Cho dùng liên tiếp qua đưdng uống cứ 6 giờ 1 lần thì sau 2 – 3 ngày sẽ đạt được trạng thái cân bằng. Cho liều cao có thể gây hậu quả tác động lên thần kinh trung ương như áo giác hoặc lẫn lộn.

Liều dùng gợi ý: 50 – 100mg dextropropoxyphen phối hợp với 250 – 600mg aspirin hoặc 500mg paracetamol có hiệu quả chống đau cao hơn hiệu quả của từng loại dùng đơn độc

Thuốc sản xuất dưới dạng clohydrat propoxyphen và napsỵlat ptopoxyphen; l00mg napsylat tương đương với 65mg clohydrat.

Khi đau không còn làm giảm nhẹ đi được bằng phối hợp một loạt thuốc có thuốc phiện nhẹ với aspirine hoặc paracetamol (và nếu cần thiết với cả một loại thuốc phụ trợ) thì bệnh nhân cần phải được dùng một loại thuốc có thuốc phiện mạnh.

2, Thuốc giảm đau có thuốc phiện mạnh

Những thuốc giảm đau có thuốc phiện mạnh là những thuốc cơ bản được sử dựng để điều trị đau do ung thư ở mức độ đau vừa và đau nặng, vì thuốc dễ sử dụng và nếu được sử dụng đúng đắn thì chúng làm giảm đau rất hiệu quả cho phần lớn bệnh nhân.

Hiện nay, những vị thuốc này còn được sử dụng một cách kinh nghiệm. Để sử dụng chúng một cách logic và không gây nguy hại, ta cần phải biết tính chất dược lý học lâm sàng cùa chúng.

Dùng các thuổc có thuổc phiện mạnh thường gây nên lệ thuộc thể chất và quen thuộc, đó là những hiện tượng đáp ứng dược lý học bình thường khi dùng thuốc liên tục. Lệ thuộc thể chất có đặc điểm là thấy xuất hiện những triệu chứng như bị cai thuốc khi bất thần ngưng thuốc. Quen thuốc có đặc điểm là thấy hiệu quả của thuốc bị giảm dần đi do dùng thuốc lâu ngày và như vậy càng về sau càng cần thiết phải tăng liêu lên mới giữ được hiệu quả giảm đau như lúc ban đầu. Người thầy thuốc không được coi lệ thuộc thể chất và quen thuốc như là một trở ngại cho việc sử dụng thuốc để chống đau một cách có hiệu lực,

Lệ thuộc tâm lý là một loại tập tính (comportement) có đặc điểm là thèm thuổc và thực sự bị ám ảnh muốn được có và được dùng thuốc. Do sợ cái không đáng sợ là lệ thuộc tâm lý (nghiện thuốc) mà nhiều thầy thuốc và y tá chỉ dám sử dụng thuốc giảm đau có thuốc phiện với liều lượng không đầy đủ. Song rất nhiều sự kiện lâm sàng đã cho thấy rằng lệ thuộc tâm lý dù cho là có thể xảy ra được thì cũng hiếm khi gặp ở những người bệnh ung thư được dùng thuốc này để chữa đau trường diễn. Đổi với những bệnh nhân này, đau là một triệu chứng trọng đại phải được chững và có thể chữa được.

Cũng cần phải nhấn mạnh rằng có thể ngừng dùng liên tục mocphin qua đường uổng nếu nguyên nhân đau đã được loại trừ bằng điều trị chống ung thư (ví dụ, tia xạ hoặc hóa chất). Liều dùng cần giảm dần dần trong một thời gian trải ra là 3 tuần hoặc hơn nếu có thể được. Theo cách ấy các dấu hiệu nhớ thuốc sẽ hết.

Để sử dụng một cách có hiệu quả các loại thuốc này, cần chú ý đến nhiều yếu tố bao gồm: tuổi bệnh nhân, tình trạng dinh dưỡng, mức độ lan tràn của bệnh (đặc biệt là lan vào gan và thân). Đối với những bệnh nhân nhiều tuổi, cần cho liều ban đầu thấp hơn, vì dược động học của thuốc thay đổi và đáp ứng thuốc tăng lên. Đối với những bệnh nhân nuôi dưỡng kém thì cũng như vậy, cũng dùng liều ban đầu thấp hơn vì các thành phần và chức năng của cơ thể ở dây cũng thay đổi.

Vì sự đáp ứng với thuốc ở bệnh nhân này khác với bệnh nhân kia, nên cần chọn loại thuốc thích hợp nhất cho liều thích hợp nhất với từng người và bảng đường dùng đơn giản nhất. Đường uống được ưa dùng hơn cả, nhưng trong một số tình huống phải dùng thuốc bằng đường dưới lưỡi, trực tràng, hoặc đường tỉêm.

Liều dùng thông thường để đạt được giảm đau phải được điều chỉnh sao cho thật đúng với nhu cầu của từng bệnh nhân, điều này tùy thuộc vào mức độ đau mà bệnh nhân cảm thấy trước khi điều trị bằng thuốc giảm đau và vào khả năng phân bổ sinh học (biodistribution) và vào khả năng sẵn sàng sinh học (biodisponibilité) của thuốc. Khả năng sau này có thể bị thay đổi bởi các bệnh gian phát (maladie intercurrentes), khiến ta có thể buộc phải bắt đầu bằng một liều thấp hơn liều binh thường rồi lên hoặc giảm đi tùy theo nhu cầu của bệnh nhân.

Phần lớn các thuốc giảm đau có thuốc phiện mạnh được chuyển hóa chủ yếu là trong gan vì thế mà sự thải loại thuốc tùy thuộc vào chức năng gan. Suy gan có thể gặp trong nhiều loại bệnh lý nhiệt đới. Tổn thương gan không phài là chống chỉ định dùng thuốc phiện; ngược lại với paracetamol và một số thuốc bổ trợ dùng liều cao các loại thuốc có thuốc phiện) không gây độc gan.

Tuy nhiên cần thận trọng khi sử dụng cho những bệnh nhân có suy gan kèm theo. Khi có xơ gan thì người ta đã chứng minh rằng khả năng chức phận sinh học đường miệng nghĩa là một phần liều uống đi vào được tới vòng tuần hoàn chung tăng lên đổi với pethidin và dextropropaxyphen. Trái lại khối lượng máu được lọc trong một đơn vị thời gian bị giảm đi do đó thời gian tác dụng của thuốc được lâu hơn. Điều đó dẫn tới tăng tác động và tác dụng phụ của thuốc ở liều tương đốỉ thấp.

Trong những trường hợp hiếm hoi, chất chuyến hóa của phần lớn các loại thuốc này lại được thải trừ qua thận. Do đấy nếu có suy thận thì có thể dẫn đến tích lũy các chất chuyến hóa một số chất này lại có thể gây nhiễm độc…

Ví dụ như pethidin được chuyển hóa thành nocpethidin; với liều cao có thế gây co cơ và co giật. Do đó việc sử dụng thuốc này là chống chỉ định không được dùng cho bệnh nhân suy thận nặng.

Một số bệnh gan và thận đi kèm theo với hạ thấp tỷ lệ albumin, làm giảm sự liên kết huyết tương với các protein và do đó mà làm tăng độ nhậy cảm với các thuốc giảm đau, kể cả aspirin. Chế độ ăn uống quá kém cũng làm thay đổi sự đáp ứng với thuốc cũng như làm thay đổi sự phân bố và khả năng ngấm thuốc vào cơ thể. Thiếu những dữ kiện về hiệu quả của thuốc trên những bệnh nhân được nuôi dưỡng kém buộc ta phải dùng thuốc thận trọng, chứ không phải là chống chỉ định dùng trước.

Ung thư: Cách dùng thuốc giảm đau có thuốc phiện nhẹ, thuốc phiện mạnh

Bài liên quan: Tác dụng phụ của thuốc giảm đau không phải thuốc phiện trong điều trị ung thư

Yhocvn.net

 

adminyhoc

Recent Posts

Những nguyên tắc bảo vệ gan khi thời tiết giao mùa

Khí hậu miền Bắc mang nét đặc trưng của 4 mùa xuân hạ, thu đông.…

5 hours ago

Bệnh viêm gan B và những dấu hiệu nhận biết

Viêm gan B là một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây ảnh hưởng nghiêm…

5 hours ago

Những điều cần lưu ý khi dùng cây hoa nhài trị bệnh

Cây hoa nhài được sử dụng để hỗ trợ, điều trị một số bệnh nhưng…

2 days ago

Bóng chuyền môn thể thao giảm gan nhiễm mỡ hiệu quả

Gan nhiễm mỡ là căn bệnh gây ra bởi sự tích tụ quá nhiều chất…

3 days ago

Bơi giải pháp điều trị gan nhiễm mỡ an toàn và hiệu quả

Trong tốp các môn thể thao hàng đầu có tác dụng hỗ trợ giảm mỡ…

5 days ago

Đạp xe thường xuyên giảm nguy cơ gan nhiễm mỡ

Để giảm nguy cơ gan nhiễm mỡ, song song với việc đảm bảo chế độ…

1 week ago